Sunday, November 16, 2014

Brahms (1833-1897)

 

Johannes Brahms (7 tháng 5 năm 1833 tại Hamburg - 3 tháng 4 năm 1897 tại Viên) là một nhà soạn nhạc, nghệ sĩ dương cầm và chỉ huy dàn nhạc người Đức. Các tác phẩm của ông được xếp vào chủ nghĩa lãng mạn (romanticism).
Sinh ra trong một gia đình theo đạo Luther tại Hamburg, Brahms sống phần lớn cuộc đời sự nghiệp tại Viên, Áo. Danh tiếng và ảnh hưởng của Brahms lúc sinh thời đã được công nhận; theo sau bình luận của nhà chỉ huy thế kỉ XIX Hans von Bülow, ông thường được nhóm chung với Johann Sebastian Bach và Ludwig van Beethoven thành "Ba B".
Brahms sáng tác cho piano, nhạc thính phòng, dàn nhạc giao hưởng, giọng hát và hợp xướng. Là một nghệ sĩ dương cầm điêu luyện, ông thực hiện các buổi diễn ra mắt nhiều tác phẩm của chính mình, ông cũng đã từng làm việc với một số nghệ sĩ hàng đầu vào thời bấy giờ, kể cả với nghệ sĩ dương cầm Clara Schumann và nghệ sĩ vĩ cầm Joseph Joachim. Nhiều tác phẩm của ông trở thành trụ cột trong vốn tiết mục biểu diễn. Brahms là một người kiên quyết theo chủ nghĩa cầu toàn, cho nên ông đã tự hủy và không công bố rất nhiều tác phẩm của mình.
Các sáng tác của Brahms bao hàm cả những chất liệu truyền thống lẫn sáng tạo. Âm nhạc của ông có cấu trúc và kỹ thuật bắt nguồn vững chắc từ các bậc thầy Baroque và Cổ điển. Âm nhạc của Johannes Brahms, với vẻ đẹp hình thức hoàn hảo và sự dung dị sâu sắc của tâm hồn. Ông là người tiếp nối các truyền thống hiện thực cổ điển và "làm giàu" chúng bằng những thành tựu của chủ nghĩa lãng mạn Đức. Âm nhạc của Johannes Brahms vừa đầy chất triết học trữ tình đặc trưng của Bach vừa mang những hình tượng âm nhạc hoành tráng và bạo liệt theo tinh thần Beethoven, nhưng cũng đậm nỗi lo âu về số phận của con người hiện đại.
Niên thiếu
Brahms sinh ngày 7/5/1833 tại thành phố cảng Hamburg, miền bắc nước Đức, là con thứ trong gia đình một nhạc sĩ nghèo, dòng dõi thị dân. Cha của ông là Johann Jakob Brahms (1806–72) di dân từ Dithmarschen đến Hamburg, kiếm sống bằng nghề chơi nhạc, ông có thể chơi nhiều nhạc cụ khác nhau, nhưng chủ yếu là thổi kèn cor, chơi contrabass. Chính Brahms nói về thời thơ ấu của mình: "Chẳng có mấy ai sống khổ như tôi".
Johann Jakob Brahms đã cho con trai mình đi học nhạc lần đầu tiên. Brahms học piano từ 7 tuổi với Otto Friedrich Willibald Cossel. Do đói nghèo của gia đình, cậu bé Brahms phải chơi nhạc ở các sàn nhảy và nhà thổ xung quanh là các thủy thủ say rượu và gái mại dâm thường vuốt ve cậu. Các nhà viết tiểu sử hiện đại đã nhấn mạnh thời kỳ này là nguyên nhân làm cho Brahms không có khả năng 'để có một mối quan hệ hôn nhân thành công, quan điểm của ông về phụ nữ bị biến dạng bởi những trải nghiệm trong quá khứ của mình'. Gần đây, các học giả nghiên cứu về Brahms là Styra Avins và Kurt Hoffman cho rằng những nhận xét này là sai lầm.
Trong một thời gian, Brahms cũng học thêm cello. Sau khi những bài học piano đầu tiên với Otto Cossel, Brahms tiếp tục học piano với Eduard Marxsen, một người đã từng học ở Viên với Ignaz von Seyfried (học sinh của Mozart) và Carl Maria von Bocklet (bạn thân của Schubert). Chàng trai Brahms đã biểu diễn một vài buổi hòa nhạc công cộng ở Hamburg, nhưng chẳng gây được tiếng tăm gì cho đến khi ông thực hiện một tour diễn ở tuổi 19.
Hội ngộ với Joachim và Liszt
Vào tháng 4 và tháng 5 năm 1853, Brahms rời bỏ Hamburg đi lưu diễn khắp đất nước cùng nghệ sĩ violin – nhà cách mạng người Hungary – Eduard Reményi và qua đó có dịp gặp Franz Liszt, Peter Cornelius, Joachim Raff tại Weimar, và Joseph Joachim tại Hannover. Lúc này Liszt đã sừng sững như một tượng đài âm nhạc thế giới, nhưng chỉ mới vài ngày Brahms đã ngộ ra rằng giữa ông và nhà soạn nhạc vĩ đại người Hungary không thể có "điểm tiếp xúc" nào cả. Khát vọng nghệ thuật của Liszt vì một thứ âm nhạc có chương trình trong đó nội dung và hình thức được xác định bằng hình tượng văn học quá xa lạ với Brahms. Theo nhiều nhân chứng cho cuộc tao ngộ giữa Brahms với Liszt (lúc đó Liszt trình diễn "khúc keczô" (Scherzo), op.4 của Brahms), trong khi Brahms lại không toàn tâm toàn ý để trình bày bản sonata của Liszt (Brahms đã ngủ thiếp đi khi đang thực hiện buổi diễn), điều này làm cho Reméyi cảm thấy bị xúc phạm và họ chia tay ngay sau đó.
Brahms và Schumann
Joachim đã gửi một thư giới thiệu Brahms cho Robert Schumann, và sau đó Brahms đã bắt tàu đến Düsseldorf. Tại đây, Brahms gặp Robert Schumann và cuộc gặp này tạo ra bước ngoặt lớn trong cuộc đời của ông. Tuy đang bị bệnh tâm thần hành hạ nhưng nhà soạn nhạc người Đức nổi tiếng Schumann đã phải sửng sốt trước tài năng độc đáo của chàng nhạc sĩ vô danh 20 tuổi, nên vào ngày 28 tháng 10 năm 1853 Schumann đã viết bài báo cuối cùng của mình (sau 10 năm gác bút) với nhan đề Neue Bahnen (Con đường mới) trên tạp chí âm nhạc Neue Zeitschrift für Musik do ông sáng lập. Hai mươi năm trước đó, Schumann là người đầu tiên viết về Chopin và bây giờ ông là người đầu tiên viết về Brahms. Ông gọi Brahms là "Bậc thầy biểu đạt hoàn hảo tâm hồn thời đại". Bài báo của Schumann đã đưa tên tuổi Brahms đi khắp thế giới.
Trong thời gian ở Düsseldorf, Brahms cùng với Schumann và học trò của ông là Albert Dietrich soạn bản sonata để dành tặng cho nghệ sĩ vĩ cầm Joseph Joachim; bản sonata được biết dưới cái tên F–A–E Sonata (tiếng Đức: Frei aber einsam, tự do nhưng cô độc). Trong thời gian này, Brahms trở nên rất gắn bó với vợ của Schumann là nghệ sĩ dương cầm, đồng thời cũng là nhà soạn nhạc, bà Clara Schumann. Clara lớn hơn Brahms 14 tuổi, nhưng mối quan hệ giữa 2 người vẫn nồng nàn và mối tình này đã theo Brahms đến suốt đời. Brahms không kết hôn với bất cứ ai, mặc dù sau đó ông vẫn có những cảm xúc cháy bỏng với nhiều phụ nữ khác, kể cả việc dự tính tiến đến đính hôn với Agathe von Siebold ở Göttingen vào năm 1859, tuy nhiên tất cả mối quan hệ này đều nhanh chóng tan vỡ. Sau vụ tự tử không thành của Schumann và tiếp 2 năm sau đó ông bị nhốt ở viện điều dưỡng tâm thần gần Bonn (theo yêu cầu của chính Schumann), Brahms trở thành người trung gian giữa Clara và chồng của bà, ông cũng kiêm luôn việc quán xuyến mọi thứ trong nhà.
Sau cái chết của Schumann, Brahms nhanh chóng trở về Düsseldorf, dọn đến sống trong một căn phòng ở nhà Schumann trong suốt 2 năm sau đó, và hi sinh cả sự nghiệp nghệ thuật của mình để phụng sự Clara. Mối quan hệ giữa Brahms và Clara Schumann cùng với "tình yêu vĩnh hằng" của Beethoven có lẽ là những bí ẩn lớn nhất trong lịch sử âm nhạc.
Detmold và Hamburg
Sau cái chết của Schumann tại viện điều dưỡng vào năm 1856, Brahms lui tới giữa Hamburg để xây dựng và tổ chức một dàn đồng ca nữ, và công quốc Detmold để dạy nhạc và làm nhạc trưởng. Ông là nghệ sĩ solo tại buổi ra mắt Concerto số 1 cho piano của mình vào năm 1859.
Năm 1862, Brahms sang sống tại Viên, khi ấy được coi là thủ đô âm nhạc của thế giới. Năm 1863 ông được bổ nhiệm làm chỉ huy ca đoàn Vienna (tiếng Đức:Vienna Singakademie). Từ 1872-1875, Brahms là giám đốc của hội Gesellschaft der Musikfreunde ở Vienna. Ông từ chối nhận tiến sĩ âm nhạc danh dự của trường Đại học Cambridge năm 1877, nhưng lại chấp nhận lời đề nghị của trường Đại học Breslau năm 1879.
Ở Vienna, Brahms trở thành chủ tướng của những người "chống lại" Liszt và Wagner trong cái gọi là cuộc chiến giữa hai trường phái "Leipzig" và "Weimar". Thậm chí cả Hans Von Bulow, học trò lỗi lạc của Liszt và là bạn của Wagner, cũng nhảy sang phe Brahms. Bulow gọi Bản Giao hưởng số 1 của Brahms (viết năm 1876) là "bản giao hưởng thứ 10 của Beethoven". Đó là một lời nói hơi thậm xưng, nhưng nó thể hiện quan điểm của giới âm nhạc nửa cuối thế kỷ 19: tên tuổi Brahms được đặt cạnh tên của Beethoven và Bach - thần tượng của ông. Cuối đời Brahms đã nói một câu nổi tiếng: "Có 2 sự kiện lớn nhất đời tôi – đó là sự thống nhất nước Đức và việc xuất bản tuyển tập tác phẩm của Bach".
10 năm ở Vienna là thời kỳ sáng tạo của Brahms đạt tới đỉnh cao huy hoàng. Trừ opera và âm nhạc theo chương trình, ông đã viết đến 380 tác phẩm thanh nhạc, 3 sonata, 5 biến tấu, 5 ballad, 3 rhapsody... cho piano, 3 sonata cho violin, 2 sonata cho cello và nhiều tác phẩm Tam tấu, Tứ tấu, Ngũ tấu... trong đó có nhiều tuyệt tác như Biến tấu theo chủ đề của Paganini (A-moll), Quintet cho piano (F-moll), Sonata số 3 cho violin, concerto số 2 cho piano (B-dur) - một "giao hưởng" 4 chương độc đáo có phần solo của piano. Đặc biệt với các tác phẩm giao hưởng, Brahms trở thành một trong những nhân vật lỗi lạc nhất của lịch sử âm nhạc thế giới thế kỷ 19. Giữa lúc hệ thống tư duy giao hưởng lãng mạn tưng bừng lên ngôi, ông đã đẩy tới sự hoàn chỉnh những nguyên tắc của chủ nghĩa cổ điển trong các thể tài giao hưởng. Đây chính là sự độc đáo và cống hiến lịch sử của Brahms. Thế nhưng, không giống những hậu bối của Felix Mendelssohn máy móc rập khuôn các quy luật cấu trúc và hình thức xưa cũ, Brahms sử dụng các thủ pháp giao hưởng cổ điển một cách sáng tạo để thể hiện một thế giới hình tượng lãng mạn, những tình cảm hiện đại, chất thơ, chất phóng túng của âm nhạc. Đương thời một nhà phê bình đã nói "Brahms cảm nhận bằng đầu và tư duy bằng trái tim".
Những năm nổi tiếng
Buổi ra mắt bản hợp xướng lớn nhất của ông A German Requiem tại Bremen năm 1868 đã khẳng định danh tiếng của Brahms ở khắp Châu Âu, và khiến nhiều người chấp nhận rằng ông đã chinh phục được Beethoven và các bản giao hưởng. Điều này cho ông thêm tự tin để hoàn tất một số công trình mà ông đã vật lộn trong nhiều năm, chẳng hạn như cantana Rinaldo, tứ tấu dành cho đàn dây đầu tiên, tứ tấu thứ 3 dành cho piano, và bản giao hưởng đầu tiên. Ba bản giao hưởng khác sau đó hoàn tất vào năm 1877, 1883, và 1885.
Bốn bản giao hưởng của Brahms đưa ông đến những đỉnh cao nhất của âm nhạc giao hưởng thời kỳ sau Beethoven. Giao hưởng số 4 (E-moll) kể về các khúc ngoặt bi thương của cuộc sinh tồn đầy kịch tính và tinh thần bất khuất, thuộc số những tác phẩm độc đáo và hoàn mỹ nhất của Brahms. Bản Concerto cho violin (D-dur) là một trong những concerto hay nhất thế giới viết cho violin. Brahms nói: "Sáng tác đẹp như Mozart thì chúng ta chịu, nhưng ít nhất phải cố viết được tinh khiết như ông". Vấn đề không chỉ liên quan về kỹ thuật mà còn liên quan đến cả vẻ đẹp thẩm mỹ nội dung âm nhạc Mozart. Nhạc của Brahms phức tạp, xung động hơn nhạc của Mozart, như thời đại ông với thời đại của Mozart. Nhưng Brahms theo đuổi tín điều này, vì toàn bộ hoạt động sáng tạo của ông được đặc trưng khát vọng vươn tới những lý tưởng thẩm mỹ cao đẹp.
Năm 1889, Brahms được trở thành công dân danh dự của Hamburg và cho đến tận năm 1948 thì ông người gốc Hamburg duy nhất được nhận vinh dự này.
Cuối đời
Năm 1890, ở 57 tuổi Brahms đã quyết định ngừng sáng tác. Tuy nhiên, khi những ý nhạc bật ra, ông không thể thực hiện được quyết định của mình, và trong những năm trước khi qua đời ông đã sáng tác thêm một số kiệt tác được ghi nhận. Sự ngưỡng mộ của ông đối với Richard Mühlfeld, một nghệ sĩ clarinet ở dàn nhạc Meiningen, đã gợi ý cho ông sáng tác các tam tấu clarinet, Op. 114, tứ tấu clarinet, Op. 115 (1891), và bản sonata số 2 cho clarinet, Op. 120 (1894). Ông cũng viết Vier ernste Gesänge, Op. 121 (1896), và Eleven Chorale Preludes dành cho organ, Op. 122 (1896).
Sau khi hoàn thành tác phẩm Op.121, Brahms đã bị bệnh ung thư (theo nhiều nguồn khác nhau thì là ung thư gan hoặc tuyến tụy). Bệnh dần trở nặng và ông qua đời vào ngày 03 tháng 4 năm 1897, thọ 63 tuổi. Brahms được chôn trong Zentralfriedhof (nghĩa trang trung tâm) ở Vienna.
Tưởng niệm
Cuối năm 1897, sau khi Brahms vừa mất, nhà soạn nhạc người Anh Hubert Parry đã viết 1 bản giao hưởng ngắn Elegy for Brahms (Bi khúc dành cho Brahms) để tưởng nhớ đến ông. Đối với Parry thì Brahms mãi mãi là nghệ sĩ vĩ đại nhất. Tuy nhiên bản giao hưởng này lại không được trình diễn vào lúc Parry còn sống, lần đầu tiên nó được trình diễn trước công chúng là vào năm1918 trong 1 chương trình tưởng niệm cho chính Parry.
Những tác phẩm
Brahms đã soạn một số công trình lớn cho dàn nhạc giao hưởng, bao gồm hai bản dạ khúc (serenade), bốn bản giao hưởng (symphony), bản concerto dành cho đàn piano số 2 (số 1 là viết trên cung Rê thứ, số 2 là viết trên cung Si giáng trưởng), một concerto cho đàn violon, một concerto đôi dành cho đàn violin và cello, và 2 concerto overture: Academic Festival Overture và Tragic Overture.
Ein deutsches Requiem, nach Worten der heiligen Schrift, op. 45 (bản cầu siêu bằng tiếng Đức, ca từ trích từThánh kinh) là bản hợp xướng lớn của ông, tuy nhiên lời ca trong đó không phải được lấy trong nghi thức thánh lễ Missa pro defunctis (lễ cầu siêu), mà ông trích từ cuốn kinh thánh tiếng Đức do Martin Luther dịch. Công trình này được viết trong 3 giai đoạn chính của cuộc đời Brahms. Phiên bản đầu tiên của phần 2 được sáng tác vào năm 1854, không lâu sau lần tự tử hụt của Schumann, phần sáng tác này sau đó được Brahms sử dụng để viết concerto đầu tiên của ông dành cho đàn piano. Phần lớn bản Requiem này được ông viết sau cái chết của mẹ ông vào năm 1865. Phần 5 được bổ sung sau khi công bố chính thức vào năm 1868, tác phẩm được xuất bản vào năm 1869.
Brahms đã soạn một số công trình lớn cho dàn nhạc giao hưởng, bao gồm hai bản dạ khúc (serenade), bốn bản giao hưởng (symphony), bản concerto dành cho đàn piano số 2 (số 1 là viết trên cung Rê thứ, số 2 là viết trên cung Si giáng trưởng), một concerto cho đàn violon, một concerto đôi dành cho đàn violin và cello, và 2 concerto overture: Academic Festival Overture và Tragic Overture.

Ein deutsches Requiem, nach Worten der heiligen Schrift, op. 45 (bản cầu siêu bằng tiếng Đức, ca từ trích từ Thánh kinh) là bản hợp xướng lớn của ông, tuy nhiên lời ca trong đó không phải được lấy trong nghi thức thánh lễ Missa pro defunctis (lễ cầu siêu), mà ông trích từ cuốn kinh thánh tiếng Đức do Martin Luther dịch. Công trình này được viết trong 3 giai đoạn chính của cuộc đời Brahms. Phiên bản đầu tiên của phần 2 được sáng tác vào năm 1854, không lâu sau lần tự tử hụt của Schumann, phần sáng tác này sau đó được Brahms sử dụng để viết concerto đầu tiên của ông dành cho đàn piano. Phần lớn bản Requiem này được ông viết sau cái chết của mẹ ông vào năm 1865. Phần 5 được bổ sung sau khi công bố chính thức vào năm 1868, tác phẩm được xuất bản vào năm 1869.

Khi Johannes Brahms vẫn còn là một nghệ sĩ dương cầm vừa chớm nở, mơ ước trở thành một nhà soạn nhạc khi nghệ sĩ vĩ cầm nổi tiếng Hungary mời ông đi lưu diễn cùng nhau tại Hungary. Đi du lịch khắp đất nước Magyar Brahms gặp những giai điệu dân gian gypsy, mà sau đó được thu thập cho đến cuối đời. Năm 1869, ông đã viết cho biểu diễn piano Bốn tay chu kỳ "Hungarian Dances" đã giành được thành công, để lặp lại rằng ông đã không bao giờ thất bại. "Dance Hungary» № 5 - viết sáng, đặc biệt là liên quan đến sự thay đổi của tốc độ và giai điệu năng động.

"Dance Hungary» № 5


Celebre Valse

Johannes Brahms đặt tên cho tác phẩm của mình là Germania, nhưng do nó quá nổi tiếng nên được người Pháp gọi là Célèbre Valse [de Brahms] (Điệu valse nổi tiếng). Đến khoảng 1940, J. Larue đặt lời Pháp với tựa Loin de ton ceur.

Dans le soir qui meurt
Mon coeur appelle ton coeur
Entends sa voix Sa douce voix
Parler de notre ancien bonheur
Des jours d'été Pleins de clarté
Que notre amour a chantés
Et de ces nuits Ces folles nuits
Où je rêvais à tes côtés
Serments d'amour Doux rendez-vous
Joies des beaux jours
Reviendrez-vous
Reviendrez-vous ...


Mối tình xa xưa - Phạm Duy


Trong chiều dần im hơi
Người ngồi thương nhớ bao ngày vui
Một ngày xưa cũ, đời còn đương tơ
Là ngày hai đứa chúng ta còn thơ.
Chiều hè êm du, tràn ngập hương mơ
Cuộc tình đôi lứa như bài thơ
Gần người yêu dấu
Mộng về xôn xao
Và hồn như cất cánh bay về đâu

Lời thề bên nhau
Tình nồng đêm thâu
Cả một vầng sao
Làm tròn duyên nhau
Người từ phương nao
Trở về cho ta hết u sầu

Yêu người rồi khôn nguôi
Trầm mình trong thú đau thương người ơi
Cuộc tình duyên cũ
Dù thời gian qua
Mà lòng thương nhớ vẫn chưa hoen mờ

Chiều buồn không đâu
Ngậm ngùi thương nhau
Đời vì trôi mau
Mà đành quên sao
Người từ hôm nao
Trở về cho ta hết u sầu

Yêu người là không nguôi
Sầu tình chan chứa trong chiều rơi
Nhạc lòng êm ái dù đời tàn phai
Mà còn mãi mãi ngân trong đêm dài.


Symphony No.3

Trong 4 giao hưởng của Brahms, Giao hưởng số 3 là ngắn nhất. Cấu trúc của nó đẹp, hoàn chỉnh, tập trung làm nổi bật những xúc cảm nồng nhiệt, bùng nổ, xen lẫn tính chất thi vị, riêng tư và thầm kín. Cả bốn chương của nó đều là những chương nhạc tuyệt vời. Chương một tràn đầy tính chất sống động, nhiệt thành. Nhạc tố được tạo bởi ba nốt nhạc mở đầu: Fa (F), La giáng (Ab) và Fa (F) chính là những chữ cái đầu trong câu phương ngôn của Brahms: “Frei Aber Froh” (“Tự do nhưng hạnh phúc”). Chương hai du dương và vỗ về như một bài hát ru, có lúc lại trào lên một giai điệu chan chứa tình yêu thương, đắm đuối và hạnh phúc. Chương bốn là một bản anh hùng ca, âm nhạc luôn luôn thể hiện tính chất quả cảm, dũng mãnh và vươn lên một tương lai tươi sáng.

Đặc biệt nhất là chương ba Poco Allegretto. Đây là một trong những chương đẹp nhất của âm nhạc giao hưởng. Không mãnh liệt, không đau đớn và không quá sầu thảm, nhưng giai điệu của nó có thể chạm tới những nỗi nhớ nhung, những kỷ niệm đẹp đẽ, và thiêng liêng nhất của con người. Theo như lời của một nhà phê bình, nỗi buồn ở đây là một “nỗi buồn lặng lẽ với những tiếng thở dài thầm kín và mỉm cười qua làn nước mắt”. Chương nhạc giống như một khúc hát biệt li, một bài ca với những tình cảm nghẹn ngào không cất nên lời.


Academic Festival Overture


Tragic Overture


Ein deutsches Requiem, nach Worten der heiligen Schrift, op. 45


The Best of Brahms


No comments: