Tường vi (danh pháp khoa học :Rosa multiflora) hay còn nhiều tên gọi khác như tầm xuân nhiều hoa, hồng nhiều hoa, tường vi Nhật, dã tường vi là loài thực vật có hoa trong họ Hoa hồng. Tên gọi tường vi thường xuyên bị nhầm lẫn với một loài hoa khác là tử vi. Tường vi là loài hoa hồng bản địa của Đông Á mặc dù hoa hồng không có nguồn gốc từ châu Á. Loài hoa này xuất hiện nhiều ở Trung Quốc (tường vi là tên gọi trong tiếng Hán), Nhật Bản, Ấn Độ. Ở Việt Nam, hoa được trồng tại Hà Nội và Đà Lạt.
- Bộ (ordo) Rosales
- Họ (familia) Rosaceae
- Chi (genus) Rosa
- Loài (species) R. Multiflora
- Danh pháp Rosa multiflora
Tường vi là cây bụi cao 1–2 m; nhánh nâu đậm, gai cong. Lá mang 5-9 lá chét bầu dục, dài 1,5–3 cm, rộng 0,8–2 cm, chóp tù, gốc tròn, gân bên 8-10 đôi, mép có răng nằm; cuống bên 1-1,5m; lá kèm có rìa lông và dính trọn vào cuống. Chùy ở ngọn nhánh; hoa rộng 3 cm, cánh hoa 1x1,5 cm, màu trắng, có hương thơm. Quả giả đen hoặc đỏ, nhăn, tròn, dài 7–8 mm. Cây mọc hoang ở các bụi cây thứ sinh vùng thấp và được trồng làm cây cảnh. Ra hoa tháng 2 đến tháng 5, có quả tháng 9 đến tháng 12.
Tầm xuân nhiều hoa được trồng như một loại cây cảnh, và cũng được sử dụng như một gốc ghép để ghép giống hoa hồng trang trí. Ở vùng Đông Bắc Mỹ, tầm xuân nhiều hoa hiện nay thường được coi là một loài xâm lấn, mặc dù nó đã được du nhập từ châu Á như một biện pháp bảo vệ đất, với mục đích tạo ra một hàng rào tự nhiên để đánh dấu khu vực chăn nuôi và thu hút động vật hoang dã. Tầm xuân nhiều hoa có một điểm dễ phân biệt với hoa hồng bản địa Mỹ bởi cụm hoa lớn của nó và mật độ dày đặc của hoa và quả, thường hơn một chục, trong khi các loài hoa hồng Mỹ chỉ có một hoặc một vài hoa trên một cành.
Ở một số nơi người ta phân loại dã tường vi là "cỏ dại gây hại". Trong khu vực chăn thả gia súc, hoa hồng này thường được coi là một loài gây hại nghiêm trọng, mặc dù nó là thức ăn rất tốt cho dê. Quả thường được dùng để chữa phong thấp nhức mỏi, kinh nguyệt không đều, hành kinh đau bụng. Ở Trung Quốc, rễ được dùng chữa chảy máu cam, phong thấp, bán thân bất toại, rễ tươi chữa đái dầm, người già đi tiểu nhiều lần. Lá dùng chữa thũng độc, mụn nhọt. Hoa trị nóng ngực oi bức và tâm phiền miệng khát.
Tường vi là giống hoa đồng nội dễ trồng. Hoa tường vi có mặt nhiều nơi nơi. Người dân quê yêu hoa, thường trồng hoa tường vi làm bờ rào. Tường vi thân khá cao dễ chừng đến 2m - quanh thân có gai bén. Lá tường vi là loại lá có bẹ, có khía như lá hồng. Hoa nở thành chùm ở ngọn, mỗi chùm chừng năm đến bảy hoa. Hoa không lớn như hồng nhưng sắc hoa rực rỡ tươi sáng từ nhạt đến hồng đậm. Tường vi đẹp nhưng không kiêu sa như hoa hồng, chỉ lặng lẽ đướng khép nép bên bờ rào, khiêm tốn tỏa sắc hương như cô thôn nữ làng quê.
Sự tích hoa tường vi
Câu chuyện tình của một cô công chúa tóc dài sống lẻ loi trong cung điện trên vùng thượng nguồn. Trời cao nguyên lành lạnh đủ làm tăng màu đen óng ả của mái tóc, làm căng làn da mặt trắng hồng mịn màng như bông, làm màu đỏ của đôi môi người con gái như mọng hơn lên trong màn sương xám, và nhất là làm đôi mắt ướt cuả nàng như sáng long lanh trong những giọt sương. Tường Vy đẹp nổi tiếng khắp nơi, nhưng đồng thời nàng bao giờ cũng mang một vẻ buồn. Sở dĩ nàng phải chịu cảnh sống lẻ loi giữa vùng hẻo lánh này chỉ vì lời tiên đoán của một lão ông với vua cha, khi nàng vừa chào đời, rằng nàng sẽ phải chịu nhiều bất hạnh. Vua cha vì sợ, và thương con, nên đành đem nàng đi cất giấu nơi đèo heo khuất gió để tránh khỏi hung tà. Thế nhưng tiếng đồn xa gần về sắc đẹp của Tuờng Vy cũng lan nhanh, nhất là những buổi chiều khi giọng hát của nàng lan rộng khắp núi đồi, hoà vào hợp âm của những chú chim non hót véo von xung quanh, và những cơn gió reo bên ngoài. Bao nhiêu người đánh tiếng hỏi vợ, nhưng vua cha một mực từ chối, thâm tâm vẫn để ý kiếm tìm một phò mã xứng danh.
Một ngày kia, Tường Vy lâm bạo bệnh. Thầy thuốc hết sức chữa nhưng đành cúi đầu chịu thua. Bỗng đâu vị lão phu ngày nọ đòi diện kiến nhà vua, và phán rằng bệnh của nàng chỉ có thể chữa được bằng cánh lá của một loài hoa trắng, mọc cheo leo trên đỉnh núi, giữa hai vực thẳm và một ngọn thác. Vua phải tìm cho bằng được cánh hoa đó để cứu con, nên truyền lệnh hễ ai kiếm được đóa hoa đó, sẽ lấy được nàng, và sẽ được truyền ngôi cho. Bao nhiêu chàng trai đua nhau vào rừng tìm kiếm, nhưng đều thất vọng, trong khi đó sức khoẻ của Tường Vy tắt dần. Trong lúc mọi người thất vọng, một hôm, người tiều phu trẻ, dáng nghèo nàn, xuống ngựa đem dâng vua cha bông hoa màu trắng. Từng cánh hoa phục hồi sức khỏe của nàng. Đôi mắt từ từ mở ra, lần đầu tiên để người ân nhân nhìn thấy bóng hình của hai đóa hoa thấp thoáng trong ánh mắt đó. Lễ cưới được cử hành chưa được bao lâu, thì tai biến xảy đến cho đất nước.
Tuân lệnh vua cha, chàng phò mã trẻ cầm quân, tạm chia tay với vợ, ra xa trường dẹp giặc ngoại xâm. Họ hẹn nhau ngày đoàn tụ, và chiều chiều nhờ gió hát gửi theo hướng đến người kia, như một lời trò chuyện. Những lá thư viết trên những cánh chim làm tin, đều đặn bay đi về. Một hôm nàng bặt tin chồng, tiếng hát của nàng dường như loãng vào oảng không, chỉ còn tiếng vọng lại từ gió núi. Tường Vy chờ mãi tin chồng, nhưng những cánh chim bay đi, rồi lại trở về không. Đoán điềm chẳng lành đã xảy ra, chiều chiều nàng ra nơi thác núi, tiếp tục chờ tin. Cho đến một buổi chiều, chim bay về đem tin chẳng lành. Bật khóc, và tuyệt vọng, Tường vy tung mình theo giòng thác, mất tích giữa giòng nước ồ ạt. Từ chỗ chân nàng đứng, theo những giọt nước mắt rơi xuống, người ta về sau tìm thấy một loài hoa mới, với dáng dấp y hệt như đóa hoa trắng của anh tiều phu trẻ cứu người, chỉ khác màu đỏ thắm. Đóa hoa nở cạnh giòng thác, êm đềm, và dịu dàng, nhưng vẫn kiêu sa và vững vàng giữa trời gió cao nguyên và khí trời khắc nghiệt của cao nguyên. Lạ hơn nữa, trong những ngày u uất nhất, người lữ khách vô tình soi bóng trên giòng nước, sẽ thấy bóng phản chiếu của những đóa hoa mang màu mắt long lanh, và bóng hình y hệt đôi mắt nàng công chúa. Từ đó hoa mang tên Tường Vy, để tưởng nhớ hoài đến nàng công chúa chung thuỷ chờ chồng.
No comments:
Post a Comment