Thursday, August 20, 2015

Renaissance (1400 AD)



Renaissance architecture is the architecture of the period between the early 15th and early 17th centuries in different regions of Europe, demonstrating a conscious revival and development of certain elements of ancient Greek and Roman thought and material culture. Stylistically, Renaissance architecture followed Gothic architecture and was succeeded by Baroque architecture. Developed first in Florence, with Filippo Brunelleschi as one of its innovators, the Renaissance style quickly spread to other Italian cities. The style was carried to France, Germany, England, Russia and other parts of Europe at different dates and with varying degrees of impact. Renaissance style places emphasis on symmetry, proportion, geometry and the regularity of parts as they are demonstrated in the architecture of classical antiquity and in particular ancient Roman architecture, of which many examples remained. Orderly arrangements of columns, pilasters and lintels, as well as the use of semicircular arches, hemispherical domes, niches and aedicules replaced the more complex proportional systems and irregular profiles of medieval buildings.

Kiến trúc thời kỳ Phục hưng thuộc thời kỳ đầu thế kỷ 15 đến đầu thế kỷ 17 đầu ở các nước châu Âu, thể hiện một sự hồi sinh và phát triển của tư tưởng Hy Lạp và La Mã cổ đại và nền văn hóa vật chất. Phong cách kiến ​​trúc Phục hưng mô phỏng theo kiến ​​trúc Gothic và được kế tục bởi kiến ​​trúc Baroque. Được phát triển đầu tiên tại Florence, với Filippo Brunelleschi là một trong những sáng tạo của mình, phong cách thời Phục hưng nhanh chóng lan sang các thành phố khác của Ý. Phong cách này được mang sang Pháp, Đức, Anh, Nga và một số nơi khác của châu Âu vào những thời điểm khác nhau và với những mức độ ảnh hưởng cũng khác nhau. Phong cách Phục hưng nhấn mạnh vào tính đối xứng, tỷ lệ hình học và sự hài hòa của các cấu trúc như đã được thể hiện trong kiến ​​trúc cổ điển và đặc biệt là kiến ​​trúc La Mã cổ đại, qua đó nó được gìn giữ lại. Sự sắp xếp hợp lý của cột trụ, lanh tô, cũng như việc sử dụng các mái vòm bán nguyệt, bán cầu, các hốc tường và aedicules để thay thế cho các hệ thống có nhiều phức tạp hơn của các tòa nhà trung cổ.

Historiography

The word "Renaissance" derived from the term "la rinascita", which means rebirth, first appeared in Giorgio Vasari's Vite de' più eccellenti architetti, pittori, et scultori Italiani The Lives of the Artists, 1550–60. Although the term Renaissance was used first by the French historian Jules Michelet, it was given its more lasting definition from the Swiss historian Jacob Burckhardt, whose book, Die Kultur der Renaissance in Italien 1860,The Civilization of the Renaissance in Italy, 1860, English translation, by SGC Middlemore, in 2 vols., London, 1878) was influential in the development of the modern interpretation of the Italian Renaissance. The folio of measured drawings Édifices de Rome moderne; ou, Recueil des palais, maisons, églises, couvents et autres monuments (The Buildings of Modern Rome), first published in 1840 by Paul Letarouilly, also played an important part in the revival of interest in this period.Erwin Panofsky, Renaissance and Renascences in Western Art, (New York: Harper and Row, 1960) The Renaissance style was recognized by contemporaries in the term "all'antica", or "in the ancient manner" (of the Romans).

Từ "Renaissance" bắt nguồn từ thuật ngữ "la rinascita", có nghĩa là tái sinh, lần đầu tiên xuất hiện trong Giorgio Vasari Vite de 'piu eccellenti Architetti, pittori, et scultori Italiani Cuộc sống của các nghệ sĩ, 1550-1560. Mặc dù thuật ngữ Renaissance được sử dụng lần đầu tiên bởi nhà sử học Pháp Jules Michelet, nó đã được đưa ra định nghĩa lâu dài hơn từ các nhà sử học Thụy Sỹ Jacob Burckhardt, tác giả cuốn sách, Die Kultur der Renaissance tại Italien năm 1860, các nền văn minh của thời Phục hưng ở Ý, năm 1860, tiếng Anh dịch, bởi SGC Middlemore, trong 2 vols., London, 1878) đã ảnh hưởng lớn trong sự phát triển của việc giải thích hiện đại của thời kỳ Phục hưng Ý. Các folio bản vẽ đo dinh thự de Rome moderne; ou, Recueil des Palais, maisons, églises, couvents et autres di tích (Các tòa nhà hiện đại Rome), xuất bản lần đầu vào năm 1840 bởi Paul Letarouilly, cũng đóng một phần quan trọng trong sự hồi sinh quan tâm trong này period.Erwin Panofsky, Renaissance và Renascences trong nghệ thuật phương Tây, (New York: Harper và Row, 1960) các phong cách thời Phục hưng đã được công nhận bởi những người đương thời trong thuật ngữ "all'antica", hoặc "theo cách thức cổ đại" (của người La Mã).

Principal phases

Historians often divide the Renaissance in Italy into three phases. Whereas art historians might talk of an "Early Renaissance" period, in which they include developments in 14th-century painting and sculpture, this is usually not the case in architectural history. The bleak economic conditions of the late 14th century did not produce buildings that are considered to be part of the Renaissance. As a result, the word "Renaissance" among architectural historians usually applies to the period 1400 to ca. 1525, or later in the case of non-Italian Renaissances.
Historians often use the following designations :
  • Renaissance (ca. 1400–1500); also known as the Quattrocento.
  • High Renaissance (ca.1500–1525)
  • Mannerism (ca. 1520–1600)
Các nhà sử học thường chia thời kỳ Phục hưng ở Ý thành ba giai đoạn. Trong khi đó, các nhà sử học nghệ thuật có thể nói về một "Early Renaissance" thời gian, trong đó họ bao gồm phát triển trong hội họa và điêu khắc từ thế kỷ 14, điều này thường không phải là trường hợp trong lịch sử kiến trúc. Các điều kiện kinh tế ảm đạm của những năm cuối thế kỷ 14 đã không tạo ra các tòa nhà được coi là một phần của thời kỳ Phục hưng. Kết quả là, từ "Renaissance" giữa các nhà sử kiến trúc thường được áp dụng cho giai đoạn 1400 đến khoảng 1525, sau đó các trường hợp còn lại của Renaissances không phải người Ý.
Các nhà sử học thường sử dụng các mô tả sau đây :
  • Tiền kỳ Phục hưng (khoảng 1400-1500); thường gọi là Quattrocento.
  • Thịnh kỳ Phục hưng (khoảng 1500-1525)
  • Hậu kỳ Phục hưng (thói quen) (khoảng 1520-1600)
Quattrocento

In the Quattrocento, concepts of architectural order were explored and rules were formulated. The study of classical antiquity led in particular to the adoption of Classical detail and ornamentation. Space, as an element of architecture, was utilised differently from the way it had been in the Middle Ages. Space was organised by proportional logic, its form and rhythm subject to geometry, rather than being created by intuition as in Medieval buildings. The prime example of this is the Basilica di San Lorenzo in Florence by Filippo Brunelleschi (1377-1446).

Trong Quattrocento, khái niệm về trật tự kiến trúc đã được khám phá và các quy tắc đã được xây dựng. Các nghiên cứu về thời cổ đại đã dẫn đặc biệt đối với việc áp dụng các chi tiết cổ điển và trang trí. Không gian, như một yếu tố của kiến ​​trúc, đã được sử dụng khác với cách nó đã được trong thời Trung Cổ. Không gian đã được tổ chức bởi logic theo tỷ lệ, hình thức của nó và có thể nhịp điệu cho hình học, chứ không phải được tạo ra bằng trực giác như trong các tòa nhà thời Trung Cổ. Ví dụ điển hình của việc này là Basilica di San Lorenzo ở Florence bởi Filippo Brunelleschi (1377-1446).


During the High Renaissance, concepts derived from classical antiquity were developed and used with greater surety. The most representative architect is Bramante (1444–1514) who expanded the applicability of classical architecture to contemporary buildings. His San Pietro in Montorio (1503) was directly inspired by circular Roman temples. He was, however, hardly a slave to the classical forms and it was his style that was to dominate Italian architecture in the 16th century.

Trong thời kỳ Phục hưng cao, các khái niệm có nguồn gốc từ thời cổ đại được phát triển và sử dụng có tin tưởng hơn. Các kiến ​​trúc sư đại diện nhất là Bramante (1444-1514) đã mở rộng phạm vi áp dụng của kiến trúc cổ điển cho các tòa nhà hiện đại. Ông San Pietro in Montorio (1503) được lấy cảm hứng trực tiếp bởi ngôi đền La Mã tròn. Tuy nhiên ông phải cố gắng để hầu như không lệ thuộc vào các hình thức cổ điển và tạo phong cách của riêng mình như là để khống chế kiến trúc Ý vào thế kỷ 16.

Mannerism

During the Mannerist period, architects experimented with using architectural forms to emphasize solid and spatial relationships. The Renaissance ideal of harmony gave way to freer and more imaginative rhythms. The best known architect associated with the Mannerist style was Michelangelo (1475–1564), who is credited with inventing the giant order, a large pilaster that stretches from the bottom to the top of a façade. He used this in his design for the Campidoglio in Rome. Prior to the 20th century, the term Mannerism had negative connotations, but it is now used to describe the historical period in more general non-judgemental terms.

Trong thời gian Mannerist, kiến ​​trúc sư đã thử nghiệm với việc sử dụng các hình thức kiến trúc để nhấn mạnh mối quan hệ vững chắc và không gian. Lý tưởng thời Phục hưng của sự hài hòa nhường chỗ cho nhịp điệu tự do hơn và sáng tạo hơn. Các kiến ​​trúc sư nổi tiếng nhất gắn liền với phong cách Mannerist là Michelangelo (1475-1564), người được coi là người phát minh ra thứ tự khổng lồ, một pilaster lớn trải dài từ phía dưới lên đỉnh một mặt tiền. Ông đã sử dụng trong thiết kế của mình cho Campidoglio ở Rome. Trước thế kỷ 20, những thói hạn có ý nghĩa tiêu cực, nhưng bây giờ nó được sử dụng để mô tả các giai đoạn lịch sử trong nhiều điều khoản không phán xét chung.

Characteristics

The obvious distinguishing features of Classical Roman architecture were adopted by Renaissance architects. However, the forms and purposes of buildings had changed over time, as had the structure of cities. Among the earliest buildings of the reborn Classicism were churches of a type that the Romans had never constructed. Neither were there models for the type of large city dwellings required by wealthy merchants of the 15th century. Conversely, there was no call for enormous sporting fixtures and public bath houses such as the Romans had built. The ancient orders were analysed and reconstructed to serve new purposes.

Các đặc điểm phân biệt rõ ràng của kiến trúc La Mã cổ điển đã được thông qua bởi các kiến ​​trúc sư thời kỳ Phục hưng. Tuy nhiên, các hình thức và mục đích của các tòa nhà đã thay đổi theo thời gian, khi đã có cấu trúc của thành phố. Trong số các tòa nhà đầu tiên của Cổ Điển tái sinh là nhà thờ của một loại mà người La Mã đã không bao giờ được xây dựng. Không có mô hình cho các loại hình nhà ở thành phố lớn theo yêu cầu của thương gia giàu có của thế kỷ 15. Ngược lại, không có yêu cầu cho đèn chiếu sáng thể thao lớn và nhà tắm công cộng như người La Mã đã xây dựng. Các tiêu chí cổ xưa đã được phân tích và xây dựng lại để phục vụ mục đích mới.

Plan

The plans of Renaissance buildings have a square, symmetrical appearance in which proportions are usually based on a module. Within a church, the module is often the width of an aisle. The need to integrate the design of the plan with the façade was introduced as an issue in the work of Filippo Brunelleschi, but he was never able to carry this aspect of his work into fruition. The first building to demonstrate this was St. Andrea in Mantua by Alberti. The development of the plan in secular architecture was to take place in the 16th century and culminated with the work of Palladio.

Mặt bằng của các tòa nhà Renaissance có hình vuông vắn, có tính đối xứng, trong đó tỷ lệ này thường được dựa trên một mô-đun. Trong một nhà thờ, các mô-đun thường là chiều rộng của một lối đi. Sự cần thiết phải tích hợp các thiết kế của kế hoạch với mặt tiền đã được giới thiệu như là một vấn đề trong công việc của Filippo Brunelleschi, nhưng ông không bao giờ có thể thực hiện khía cạnh này của công việc của mình thành hiện thực. Toà nhà đầu tiên để chứng minh điều này là Thánh Andrea ở Mantua bởi Alberti. Sự phát triển của kế hoạch trong kiến ​​trúc thế tục đã được diễn ra trong thế kỷ 16 và lên đến đỉnh điểm với công việc của Palladio.

Façade

Façades are symmetrical around their vertical axis. Church façades are generally surmounted by a pediment and organised by a system of pilasters, arches and entablatures. The columns and windows show a progression towards the centre. One of the first true Renaissance façades was the Cathedral of Pienza (1459–62), which has been attributed to the Florentine architect Bernardo Gambarelli (known as Rossellino) with Alberti perhaps having some responsibility in its design as well. Domestic buildings are often surmounted by a cornice. There is a regular repetition of openings on each floor, and the centrally placed door is marked by a feature such as a balcony, or rusticated surround. An early and much copied prototype was the façade for the Palazzo Rucellai (1446 and 1451) in Florence with its three registers of pilasters.

Mặt tiền được bố trí đối xứng với trục thẳng đứng của công trình. Mặt tiền nhà thờ thường được chọn giải pháp bởi một hình tam giác và tổ chức thêm một hệ thống cột trụ tường, vòm và hình thức mũ cột. Các cột và cửa sổ hiển thị một sự tiến triển về phía trung tâm. Một trong những mặt tiền Renaissance đầu tiên là Nhà thờ Pienza (1459-1462), đã được giao cho kiến ​​trúc sư Florentine là Bernardo Gambarelli (còn được gọi là Rossellino) theo như kiến trúc sư Alberti có lẽ đã giải quyết tốt một số nhiệm vụ yêu cầu của đồ án thiết kế.
Mặt tiền các tòa nhà dân dụng thường được chọn giải pháp gờ chỉ phào. Có một sự lặp lại thường xuyên của các lỗ hở trên mỗi tầng, cửa đi đặt ở trung tâm được đánh dấu bằng những chi tiết có tính năng như một ban công, hoặc trát vữa nhám chung quanh. Một nguyên mẫu điễn hình là mặt tiền cho Palazzo Rucellai (1446 và 1451) ở Florence chỉ định với ba hàng trụ ốp tường.
Columns and pilasters

The Roman orders of columns are used : Tuscan, Doric, Ionic, Corinthian and Composite. The orders can either be structural, supporting an arcade or architrave, or purely decorative, set against a wall in the form of pilasters. During the Renaissance, architects aimed to use columns, pilasters, and entablatures as an integrated system. One of the first buildings to use pilasters as an integrated system was in the Old Sacristy (1421–1440) by Brunelleschi.

Các thức cột La Mã được sử dụng: Tuscan, Doric, Ionic, Corinthian và Composite. Các hình thức này không những là một cấu trúc, chống đỡ mái vòm hoặc đầu dầm, hoặc hoàn toàn dùng để trang trí, được đặt áp sát các bức tường dưới hình dạng những trụ ốp tường. Trong thời kỳ Phục hưng, kiến ​​trúc sư có mục đích sử dụng cột, pilasters, và entablatures như một hệ thống tích hợp. Một trong những công trình đầu tiên sử dụng pilasters như một hệ thống tích hợp là The Old Sacristy (1421-1440) của Brunelleschi.

Arches

Arches are semi-circular or (in the Mannerist style) segmental. Arches are often used in arcades, supported on piers or columns with capitals. There may be a section of entablature between the capital and the springing of the arch. Alberti was one of the first to use the arch on a monumental scale at the St. Andrea in Mantua.

Cung là nửa vòng tròn, hoặc (trong phong cách Mannerist) là một phân đoạn. Arches thường được sử dụng trong hành lan lối đi trong nhà, được tựa trên các trụ cột hoặc đầu mũ cột. Có thể là một thành phần của entablature giữa mũ cột và chân vòng cung. Alberti là một trong những người đầu tiên sử dụng kiến trúc trên một quy mô hoành tráng tại công trình St. Andrea ở Mantua.

Vaults

Vaults do not have ribs. They are semi-circular or segmental and on a square plan, unlike the Gothic vault which is frequently rectangular. The barrel vault is returned to architectural vocabulary as at the St. Andrea in Mantua.

Vòm cong không có sườn. Là một nửa vòng tròn, hoặc một phân đoạn đặt trên một mặt vuông, không giống như các vòm Gothic thường có hình chữ nhật. Vòm cong được trở lại trong thuật ngữ kiến ​​trúc tại công trình St .Andrea ở Mantua.

Domes

The dome is used frequently, both as a very large structural feature that is visible from the exterior, and also as a means of roofing smaller spaces where they are only visible internally. After the success of the dome in Brunelleschi’s design for the Basilica di Santa Maria del Fiore and its use in Bramante’s plan for St. Peter's Basilica (1506) in Rome, the dome became an indispensable element in church architecture and later even for secular architecture, such as Palladio's Villa Rotonda.

Những mái vòm được sử dụng thường xuyên, một mặt là một cấu trúc to lớn có thể nhìn thấy từ bên ngoài, còn được coi như một giải pháp cho phần mái trong không gian nhỏ hơn nơi chỉ có thể nhìn thấy bên trong. Sau thành công của các mái vòm trong thiết kế của Brunelleschi cho Basilica di Santa Maria del Fiore và sử dụng trong đồ án Bramante cho Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô (1506) ở Rome, mái vòm đã trở thành một yếu tố không thể thiếu trong kiến trúc nhà thờ và sau đó ngay cả đối với kiến trúc thế tục, như Villa Rotonda Palladio.

Ceilings

Roofs are fitted with flat or coffered ceilings. They are not left open as in Medieval architecture. They are frequently painted or decorated.
Mái nhà được tương thích với trần nhà bằng phẳng hoặc có phân ô. Không còn bỏ ngỏ như trong kiến trúc thời Trung Cổ. Thường được sơn phết hoặc trang trí công phu.

Doors
Doors usually have square lintels. They may be set within an arch or surmounted by a triangular or segmental pediment. Openings that do not have doors are usually arched and frequently have a large or decorative keystone.
Cửa ra vào thường có dầm đỡ vuông. Có thể được đặt trong một cung hoặc được bao phủ bằng một hình tam giác tam giác hoặc phần trán tường. Lối vào mà không có cửa thường có dạng cong và được trang trí với quy mô rộng lớn.

Windows

Windows may be paired and set within a semi-circular arch. They may have square lintels and triangular or segmental pediments, which are often used alternately. Emblematic in this respect is the Palazzo Farnese in Rome, begun in 1517. In the Mannerist period the “Palladian” arch was employed, using a motif of a high semi-circular topped opening flanked with two lower square-topped openings. Windows are used to bring light into the building and in domestic architecture, to give views. Stained glass, although sometimes present, is not a feature.

Cửa sổ có thể được ghép nối và đặt trong một vòm bán nguyệt. Có thể có các dầm đỡ vuông và tam giác hoặc một phần trán tường, đó là cách thường được sử dụng phổ biến. Điển hình trong lĩnh vực này là công trình Palazzo Farnese ở Rome, bắt đầu từ năm 1517. Trong giai đoạn Mannerist các cung "Palladian" đã được dung nhiều, thường sử dụng một motif của một cao nửa vòng tròn mở hai bên có hai đầu lỗ vuông thấp hơn. Cửa sổ được sử dụng để đem ánh sáng vào tòa nhà. Kính màu thường được sử dụng, mặc dù đôi khi hiện nay, không phải là một tiêu chí.

Walls

External walls are generally constructed of brick, rendered, or faced with stone in highly finished ashlar masonry, laid in straight courses. The corners of buildings are often emphasised by rusticated quoins. Basements and ground floors were often rusticated, as at the Palazzo Medici Riccardi (1444–1460) in Florence. Internal walls are smoothly plastered and surfaced with lime wash. For more formal spaces, internal surfaces are decorated with frescoes.

Bức tường bên ngoài thường được xây bằng gạch, tô trát, ốp đá thành khối thẳng. Các góc của tòa nhà thường được nhấn mạnh bằng cách trát vữa nhám bắt góc. Tầng hầm và tầng trệt thường tô nhám, như tại công trình Palazzo Medici Riccardi (1444-1460) ở Florence. Bức tường nội bộ được thông suốt và dán lớp mặt vôi. Để không gian được trang trọng hơn, bề mặt bên trong được trang trí với các bức bích họa.

Details

Courses, mouldings and all decorative details are carved with great precision. Studying and mastering the details of the ancient Romans was one of the important aspects of Renaissance theory. The different orders each required different sets of details. Some architects were stricter in their use of classical details than others, but there was also a good deal of innovation in solving problems, especially at corners. Mouldings stand out around doors and windows rather than being recessed, as in Gothic Architecture. Sculptured figures may be set in niches or placed on plinths. They are not integral to the building as in Medieval architecture.

Các chi tiết trang trí được chạm khắc với độ chính xác tuyệt vời. Nghiên cứu, nắm vững các chi tiết của thời La Mã cổ đại là một trong những khía cạnh quan trọng của lý thuyết Phục hưng. Có các yêu cầu khác nhau cho mỗi bộ phận khác nhau của từng chi tiết. Một số kiến trúc sư còn chặt chẽ hơn trong việc sử dụng các chi tiết cổ điển hơn những người khác, nhưng cũng là một giải pháp tốt của sự đổi mới trong việc xữ lý các vấn đề kiến trúc, đặc biệt là ở các góc công trình. Gờ chỉ phào làm nổi bật xung quanh cửa ra vào và cửa sổ chứ không phải bị lõm như trong kiến trúc Gothic. Những bức tượng có thể được đặt trong các hốc tường hoặc đặt trên các bệ cột. Việc này chưa được hoàn toàn trong giai đoạn kiến trúc thời Trung cổ.


Đặc điểm chung của kiến trúc Phục hưng
Thời kỳ Phục hưng, nghệ thuật đặc biệt là nghệ thuật tạo hình chiếm vị trí tiên phong trong việc khẳng định đặc trưng của văn hóa. Con người thời kỳ Phục hưng muốn thông qua nghệ thuật để tái tạo và làm chủ thế giới vật chất xung quanh theo tiêu chuẩn của cái đẹp lí tưởng và hiện thực. Trào lưu kiến trúc Phục hưng được khởi đầu bằng việc tẩy chay phong cách kiến trúc Gothic và phục hưng lại đi sản kiến trúc La Mã cổ dại. Bố cục công trình rõ ràng, khúc chiết, dựa trên cơ sở hệ thức cột cổ điển, tuân thủ nguyên tắc "Cổ điển" là "Chuẩn mực” ("Classical" equal ''Good”), nó tái hiện một cách khoa học các giá trị chuẩn mực của nghệ thuật tạo hình cổ đại. Kiến trúc Phục hưng nhấn mạnh đến những nguyên tắc tổ hợp, tính quy luật, ổn định và sự hài hòa. Kiến trúc Phục hưng nhấn mạnh vẻ đẹp của con người (chủ nghĩa nhân thế) và đẩy mạnh việc dùng số học và hình học dể xác định tỷ lệ của công trình. Các kiến trúc sư Phục hung tiếp tục phái triển những tỷ lệ toán học chuẩn mực mà thời Cổ đại mà Pythagore đã tìm ra trước đây như: 1:1, 1:2, 2:3, 3:4, đây là nhũng tỷ iệ cơ sở để kiên tạo vẻ đẹp cho không gian. Điểm nổi bật của kiến trúc Phục hưng là không sứ dụng những yếu tố có hình dạng phức tạp như các cóng trình thời Trung cổ mà thiên về các định dạng hình học cơ bản như hình tròn và hình vuông. Con người thời kỳ này đã lập được những bản vẽ về tỷ lệ của cơ thể con người tuân theo những đường giới hạn có dạng hình tròn và hình vuông, qua đỏ chứng minh rằng tỷ lệ cơ thế con người chính là chuẩn mực. Trong số các bản vẽ này thi tiêu biểu hơn cá là bản vẽ Vitruvian Man, theo ghi chép của Leonardo da Vinci, đây là bán vẽ do Vitruvius lập trong cuốn sách thứ ba của ông về kiến trúc (cuốn Du Archiiectura) - trong bộ tác phẩm "Mười cuốn sách Kìển trúc". Vitruvius đã tìm ra được mội tỷ lệ là : Con người ở tư thế đứng thảng, hai tay dang rộng ngang bằng dau thì các ngón tav và ngón chân sẽ chạm vào chu vi của một đường tròn có tâm trùng với vị trí rốn. Một giới hạn theo hình vuông cũng được tìm ra từ tỷ lệ của cơ thế con người. Khoảng cách từ chân tới đầu khi đứng thẳng lưng cũng bằng khoáng cách sải tay khi dang ngang vai ; có nghĩa là chiều cao và chiều rộng bằng nhau; do dó lập nên một hình vuông.


Hệ thống tỷ lệ và các giá trị kiến trúc La Mã cổ đã có ảnh hưởng sâu rộng đến kiến trúc thời kỳ Phục hưng. Như một "mối thời thượng múi" được lan truyền khiến các kiến trúc sư "hành hương” tới Roma, và các thành phố khác ở Italia và ở Châu Âu có vết tích của kiến trúc La Mã cổ đại để nghiên cứu và học tập. Tuy nhiên hơn 1000 năm đã trôi qua, cuộc sống đã có nhiều thay đổi, các kiến trúc sư Phục hưng đã không sao chép nguyên xi các kiến trúc La Mã cổ đại mà chỉ sử dụng mội số luật lệ của Vitruvius đã đề ra và quan tâm nhiều đến yêu cầu của thời đại mới. Chính vì thế các kiến trúc sư Phục hưng vẫn tạo được cá tính riêng của mình. Các ảnh hướng của kiến trúc La Mã được giữ lại ứng dụng Trong thời kỳ Phục hưng là : Vòm cuốn La Mã; 5 thức cột La Mã. Vào thời kỳ Phục hưng tiền kỳ, chủ yếu dùng trang trí của La Mã nhưng đến thời Thịnh kỳ thì ảnh hưởng của kiến trúc La Mã thể hiện rõ ở cá về kiến trúc lẫn trang trí. Một công trình kiến trúc văn nghệ Phục hưng thường có các đặc điểm nổi bật : Sử dụng các thành phần cổ điển trong tác phẩm; Sử dụng các hình thức vòm ôvan đồ sộ; Sự da dạng về các loại hình kiến trúc mà chủ yếu là: nhà thờ, lâu đài và biệt thự. Nếu thời kỳ Trung thế kỳ, các lâu đài mang lính chất phòng ngự là chính, được đặt ớ những nơi nặng về phòng ngự, có phong cách bưng bít, tập trung được nhiéu người khi có biến cổ thì các lâu đài Phục hưng lại thường được đặt ở những vị trí quan trụng trong Thành phố. Lâu đài thường được thiết kế có phân vị ngang rất rõ ràng, cửa tán dưới có kích thước vừa phải trong khi các tầng trên cửa sổ thương rất rộng và giàu trang trí. Mặt bằng các lâu đài Phục hưng thường có dạng chữ nhât, lối vào chính dãn vào một sân trong lây ánh sáng ở trên xuống, ớ đây có một hành lang cột thức giàu trang trí. Ở một số công trình nhiều tầng thì còn sử dụng kết hợp tầng 1 dùng thức cột Doric, tầng 2 dùng cột Lonic còn tầng 3 dùng cột Corinth.


Giai đoạn Tiền kỳ Phục hưng
Vào giai đoạn Phục hưng tiền kì, hoạt động kiến trúc sôi nổi nhất ở FIorence vì dó Là một thành phố thương nghiệp nằm ở miền Bắc Italia với dân số khoảng 90 ngàn người. Ở Florence bấy giờ chính quyền nằm trong tay giai cấp tư sản (đại biểu là gia tộc Medicis). Giai cấp tư sản rất giầu có, xây dựng nhà ở và nhà thờ để thỏa mãn cuộc sống xa hoa của mình. Khác với kiến trúc Gothic coi trọng kết cấu, kiến trúc Phục hưng thời kỳ này lại chỉ chú ý dến tổ hợp công trình. Người có công trong việc phát triển kiến trúc Phục hưng giai đoạn tiền kỳ phải kể đến là các kiến trúc sư Fillipo Brunelleschi, Michelozzo Michclozzi di Bactolomeo, Leone Battista Alberti.

Fillipo BruneUeschi (1377-1446) được coi là kiến trúc sư lớn nhất của Florence, ông tác giả của nhiều công trinh kiến trúc nổi tiếng như mái vòm nhà thờ St. María del Fiore, Dục Anh Viện, nhà thờ St. Lorenzo, đền thờ Pazzi,.... Brunelleschi xuất thân là một thợ kim hoàn. Năm 1400 ông tham gia cuộc thi thiết kế cánh cửa bằng đồng cho phòng rửa tội của nhà thờ Florence, tuy nhiên người chiến thắng lại là Lorenzo Ghiberti (1378-1455). Chán nản sau thất bại này, Brunelleschi đã lên đường tới Rôma cùng với một người bạn là nhà điêu khắc Donatello (1386-1466), và tại đây ống hành nghề như một kiến trúc sư. Trong thời gian ở Roma, công việc của ông là vẽ lại chính xác những gì ông quan sát được; và từ đây ông đã sáng tạo ra cách vẽ phối cảnh, cho phép diễn tả lại sự vật một cách chính xác bằng cách vẽ phối cảnh không gian ba chiều từ những bản vẽ phẳng, 2 chiều. Các nghệ sĩ Italia đã tranh luận rất nhiều về cách chính xác nhất diễn tả mối liên hệ về mặt không gian trong tranh, cuối cùng đều phải công nhận cách vẽ của Brunelleschi là chuẩn xác và rõ ràng nhất. Đây là cách vẽ ông rút ra được khi vẽ những thành phần giống nhau, được lặp đi lặp lại, ví dụ như vẽ những chiếc vòm của cầu dẫn nước; Brunellschi đã nhận ra rằng những đường thẳng song song với nhau dường như hội tụ lại ở một điểm nằm trên đường chân trời và các thành phần cùng kích thước, giống nhau thì càng ở xa càng cho cảm giác nhỏ dần. Các nguyên tắc về thuật vẽ phối cảnh của Brunelleschi đã có ảnh hưởng sâu sắc đến nghệ thuật nói chung cũng như trong thiết kế các công trình kiến trúc không chỉ trong suốt thời kỳ Phục hưng mà còn cho tới tận sau này.

Brunelleschi đã giúp một người bạn của ông, họa sĩ Masaccio (1401-1428) áp dụng thuật vẽ phối cảnh này vào bức họa "Tam vị nhất thể" (Tlie Trinity) trên tưởng trong nhà thờ St. Maria Novella ở Florence. Bức tranh miêu tả Đức chúa Cha dứng trên một bệ đá lớn nâng cây thánh giá mà chúa Giêsu bị đóng đinh trên đó; bên dưới là mẹ Mary và Thánh John cùng với hai con chiên đang quỳ gối ở hai Bức họa Tam vị nhất thề bên. Hình ảnh linh thiêng được tạo ra bằng cách sử dụng hai cột Ionic đỡ vòm cuốn ở tiền cảnh, tạo nên một vòm nhà nguyện với một không gian sâu thảm phía sau, theo đúng nguyên tắc của luật vẽ phối cảnh. Bức họa của Masaccio là minh họa rõ ràng nhất, chứng minh tầm quan trọng của luật vẽ phối cảnh mà Brunelleschi đã sáng tạo ra.


  • Kiến trúc nhà thờ Florence
Công trình đầu tiên đem lại vinh quang cho tên tuổi của Brunelleschi và cũng là công trình mở đầu cho thời đại Phục hưng huy hoàng chính là vòm mái của nhà thờ Florence. Năm 1407, Brunelleschi quay về Florence. Cũng trong năm này, người phụ trách việc xây dựng nhà thờ Florence đang phải tìm kiếm các kiến trúc sư giỏi từ khắp các nước Pháp, Anh, Đức để đưa ra giải pháp xây dựng mái vòm cho nhà thờ. Nhà thờ Florence được khởi công xây dựng theo thiết kế của Arnolío di Cambio và sau này được kiến trúc sư Francesco Talenti tiếp tục phụ trách. Theo thiết kế này, nhà thờ dự kiến sẽ có một mái vòm lớn nhất từ trước tới nay, lớn hơn cả nhà thờ Pisa được xây dựng trước đây theo phong cách kiến trúc La Mã. Mái vòm được thiết kế phủ lên phần giáo đường hình bát giác và phải vượt qua được khầu độ không gian tính theo đường chéo lên tới 150 feet (khoảng 45,7m). Tuy nhiên hai kiến trúc sư này vẫn chưa tìm ra được một giải pháp hữu hiệu nào. Cơ hội đã đến với Brunclleschi khi ông cũng được mời tham gia thiết kế mái vòm cho nhà thờ. Và phương án của ông đã được lựa chọn trong số rất nhiều phương án của nhiều kiến trúc sư khác. Dựa trên những hiểu biết sâu sắc về kết cấu kiến trúc Rôman và kiến trúc Gôtích truyền thống, Brunelleschi đã đưa ra một giải pháp tổng hợp đầy sángtạo. Thay vì sử dụng một mái vòm hình bán cầu, ông đã sử dụng một mái vòm theo kiểu Gôtích. Để vượt qua một khoảng cách lớn Brunelleschi đã sử dụng giải pháp nâng chiều cao mái vòm với hệ 8 gân cứng và 16 gân phụ cùng với 2 lớp vỏ mái chụm lại đỡ chóp mái ớ trên cùng; tổng chiều cao toàn bộ công trình lên tới 115m. Với mái vòm có một không hai này, nhà thờ s. Maria del Fiore đã trở thành điểm nhấn cho toàn thành phố, là niềm tự hào cho người dân thành Florence và đem lại vinh quang cho tác giả - kiến trúc sư Brunelleschi.

Việc xây dựng mái vòm cho nhà thờ Florence mất thời gian khá dài. Sau khi Brunelleschi mất, mái vòm này mới được xây dựng xong. Việc khởi dựng chiếc vòm mái nhà thờ s. Lorenzo ở Florence chính là công trình dầu tiên đánh dấu sự bắt đầu cho thời đại huy hoàng của kiến trúc Phục hưng, công trình này là biểu tượng làm đổi mới mọi quy luật từ trước tới nay trong kiến trúc. Bên cạnh công trình này, Brunclleschi còn có rất nhiều công trình nổi tiếng khác, tạo nên những đóng góp quan trộng vào sự phát triển kiến trúc Phục hưng. Nếu như mái vòm nhà thờ Florence mở đầu cho thời kỳ Phục hưng, tiếp tục hoàn tất công trình dang dở của thời đại trước, thì công trình Dục Anh Viện ở Florence của Brunelleschi được coi như công trình trọn vẹn đầu tiên được thiết kế trong thời kỳ này. Công trình được Ởng thiết kế năm 1419 và được xây dựng từ năm 1421 đến năm 1444. Thiết kế này của Brunelleschi thể hiện rất rõ ảnh hưởng của kiến trúc Florence truyền thống và những công trình kiến trúc La Mã cổ như nhà thờ St. Miniato al Monte và nhiều nhà thờ khác. Mặt trước của Dục Anh Viện và các mật quay vào sân trong đều được thiết kế có hành lang là những dẫy vòm cuốn nửa tròn đặt trên các thức cột corinth với những phân vị đơn giản, rõ ràng và hòa hợp, tương tự như hành lang có cuốn vòm được ốp đá ở tầng 1 của nhà thờ s. Miniato và nhiều nhà nguyện khác. Nhưng công trình không nặng nề như kiến trúc cổ điển mà nhẹ nhàng, sáng sủa, qua đó ta có thể thấy ảnh hường của kiến trúc Gôtích vẫn còn lưu lại phần nào trong bút pháp của tác giả.


Dạng thức sử dụng những dãy hành lang có vòm cuốn còn thấy ở nội thất của nhà thờ s. Lorenzo. Công trình này được bắt đầu xây dựng năm 1421. Khác với hành lang cuốn vòm của Dục Anh Viện có các vòm cuốn nối từ cột sang mặt tưởng đối diện thì ớ nội thất của nhà thờ s. Lorenzo, các vòm cuốn được thiết kế gác lên hai hàng cột ở hai bên của lối đi giữa giáo đường và nối từ các hàng cột này sang các cột tiền tưởng , do đó cho hiệu quả thẩm mỹ cao hơn; cách xử lý này còn thấy ở công trình nhà thờ s. Sptrito được ông thiết kế sau này. Sau công trình nhà thờ Florence, Brunelleschi đã vận dụng một cách hoàn hảo những tỷ lệ cơ bản vào trong các thiết kế. Ông đã xây dựng gian Thánh khí cũ của nhà thờ (1421-1428) ở cánh nhà ngang phía Bắc của nhà thờ s. Lorenzo. Diện sàn và tưởng tạo nên một hình khối hộp và bao phủ trên cùng là một mái bán cầu với những ô cửa tròn nhỏ trổ ở trên mái. Các trụ tưởng và đầu cột được trang trí bằng loại đá pictra serena xám ở trong vùng, nổi bật trên nền tưởng thạch cao trắng, tạo nên những tuyến thẳng phân chia khòng gian nội thất. Viộc sử dụng nhũng hàng cột trụ tiền tưởng với bề dầy cột mỏng, đỡ các cột phía trên như Thế này được coi như một sáng tạo mới trong thiết kế của Brunclleschi. Trong cả hai cóng trình nhà thờ s. Lorenzo và s. Sptrito, Brunellcschi đã kết hợp hài hòa các yếu tố truyền thống với những tỷ lệ toán học cân đối, chuẩn mực, các vòm cuốn được sử dụng như những modul trong tổ chức không gian công trình. Tại gian giữa, bốn modul được lổ chức theo nhịp kép tạo thành một không gian lớn; cách tổ chức không gian được bố trí dọc theo gian giữa và theo cánh ngang của giáo đường tạo nên một không gian rộng theo hình chữ thập với trung tâm là khu vực dành cho dàn hát thánh ca của nhà thờ. Trong thiết kế nội thất của hai nhà thờ này ông đã khéo léo vận dụng nhiều yếu tố kiến trúc cổ điển như: những thức cột corinth, mái vòm bán cầu,... tạo nên vẻ đẹp hoàn háo cho không gian nội thất của công trình.


  • Kiến trúc đền thờ Pazzi
Đền thờ Pazzi do Brunelleschi thiết kế, được xây dựng trong những nám 1430-1433 cũng là một trong những công trình tiêu biểu của thời kỳ này. Mặc dù công trình có quy mô không lớn nhưng lại có tổ chức không gian rất phong phú; cột, vòm và mái bán cầu được kết hợp trong một tỷ lệ hài hòa, cân xứng. Trong gia đoạn Phục hưng tiền kỳ, còn nổi lên một kiến trúc sư tên tuổi khác là Michelozzo Michelozzi di Bartolomeo (1396-1472), một học trò của Brunelleschi, ông là tác giả của nhiều công trình ớ Florence và ở nhiều thành phố khác ớ miền Bắc Italia. Mặc dù không nổi tiếng bằng Brunclleschi nhưng Michelozzo cũng là một kiến trúc sư rất tài năng, ông đã dành được nhiều giải thưởng trong các cuộc thi kiến trúc thời Phục hưng do gia tộc Medicis tổ chức. Công trình nổi tiếng nhất của ông là lâu đài Medici (sau này gọi là lâu đài Ricardi, theo tên người chủ mới mua lại tòa nhà).



  • Kiến trúc lâu đài Medici
âu đài Medici (1444-1460) có the coi như kiểu mẫu điển hình cho những loại nhà ờ của quý tộc thời bấy giờ. Lâu đài cao ba tầng, mặt bằng hình vuông, có sân trong và dẫy hành lang cột bao quanh sân. Thiết kế của lâu đài chú ý nhiều đến tính chất phòng ngự, dùng kết cấu đá để đảm bảo cho nhà được bền chắc an toàn trong trường hợp tai biến và phòng được hỏa hoạn. Trên mặt đứng quay ra phố được thiết kế ba cửa vòm, cửa giữa dẫn thẳng vào sân trong của lâu đài. Tầng 1 được dùng làm trụ sở ngân hàng của gia tộc Medicis, tầng 2 là khuvực trưng bày và tầng 3 là các phòng ở. Sân trong tạo nên sự yên tĩnh, mát mẻ cho các phòng, khác hắn với sự ồn ào ngoài phố. Mặt đứng quay ra phố được thiết kế xây bằng đá với ba loại bề mặt khác nhau tương ứng với ba tầng nhà, kết hợp với những đường gờ ngang khỏe khoắn đe phân vị các tầng của mặt đứng, có tổng chiều cao tới 83 feet (khoảng 25,3m). Chiều cao các tầng càng lên cao càng giảm dần. Các ô cửa của lâu đài được thiết kế có vòm cong giống như trong kiến trúc La Mã cổ, đặc biệt là các chi tiết trang trí của mái đua với chiều rộng tới 8 feet (2,4m). Lâu đài Mcdici chính là bằng chứng chứng minh sự kết hợp hài hòa giữa các yếu tố truyền thống với những tỷ lệ cân xứng, chặt chẽ của kiến trúc Phục hưng trong các thiết kế của Michelozzo. Tuy vậy, chi nhằm mục đích gây "thần khí" cho nhà ở của quý tộc và chú ý mặt đứng ngoài nhà nên công năng của lâu đài Medici nhiều chỗ bị coi nhẹ, thiếu sự phù hợp giữa bên trong và bên ngoài. VI vậy dản đến một số bất hợp lí như tầng nhà quá lớn (có tầng cao tới 8-9m), bậc cửa sổ cũng quá cao và các phòng không có sự phân chia tính chất theo chức năng sử dụng rõ ràng.



  • Kiến trúc sư Leon Battista Alberti
Đối lập với tính thực tiễn và kỹ thuật của Brunelleschi, Leon Battista Alberti (1404-1472) lại là một nhà lý luận cổ điển, người coi kiến trúc như một phương tiện để thể hiện vị trí xã hội; theo ông, các kiến trúc sư Phục hưng phải là những người có hiểu biết toàn diện, có trí tuệ, năng lực, quyền uy và cũng là những người làm việc theo cảm hứng. Alberti là một học giả uyên bác, xuất thân trong một gia đình lưu vong sống tại Florence, Ởng là nhà tư tưởng có ảnh hướng lớn nhất thời bấy giờ. Ông đã theo học ớ trường đại học Padua và Bologna các ngành: toán học, âm nhạc, tiếng Hy Lạp, tiếng La Tinh, triết học và Luật Italia. Sau khi tốt nghiệp ông đã đến làm việc tại tòa thánh ở Rôma và trở thành thư ký của giáo hoàng. Tại Rôma ông có nhiều điều kiện để tìm hiểu thêm về các công trình kiến trúc cổ. Ông cũng nghiên cứu rất sâu về các tác phẩm của những tên tuổi lỗi lạc trong nghệ thuât cổ như: Platon, Aristote, Plutarch và Pliny; ông đã nghiên cứu rất nhiều về điêu khắc cổ đến mức ông gần như đã trở thành chuyên gia về nghệ thuật điêu khắc cổ. Alberti trở nên say mê với kiến trúc sau khi ông được đọc tác phẩm nổi tiếng "De Architectura Libridecem" trong bộ "The Ten Book on Architecture" của Vitruvius. Một trong những công trình tiêu biểu cho phong cách riêng của Alberti là lâu đài Rucellai ở Florence (1446-1451). Trong thiết kế mặt đứng ông đã sử dụng những thức cột Doric và Corinth để tạo nên các phân vị dọc và ngang của công trình, đây là lần đầu tiên cả hai loại thức cột cổ điển được sử dụng trong một công trình kiến trúc Phục hưng. Alberti cũng là tác giả thiết kế nhiều công trình tôn giáo ở Rimini và Mantua. Nhà vua Sigismondo Malatesta đã thuê ông thiết kế nhà thờ s. Francesco ở Rimini theo phong cách mới khác hẳn các nhà thờ thế kỷ XIII. Trong thiết kế này, mặc dù nhà thờ vẫn theo dạng mặt bằng của thời trung cổ nhưng các mặt tưởng được thiết kế theo phong cách hoàn toàn mới. Nhà thờ được bắt đầu xây dựng năm 1450 nhưng cho tới nay công trình vẫn chưa được hoàn thành như thiết kế. Vua Malatesta muốn dùng công trình này như lăng mộ cho chính nhà vua, hoàng hậu và các triều thần của ông. Ở mặt đứng phía trước của nhà thờ S. Francesco, Alberti đã lợi dụng bố cục ngôi đền ở phía trước đc thiết kế theo dạng cổng vòm như một khải hoàn môn, lăng mộ của vua và hoàng hậu được đặt dưới vòm cuốn ở hai bên lối vào.

  • Kiến trúc nhà thờ St. Maria Novella ở Florence
Việc đưa các chi tiết trang trí cổ điển vào thiết kế mặt đứng nhà thờ luôn là đòi hỏi đặt ra cho các kiến trúc sư Phục hưng. Công trình nhà thờ St. Maria Novella ở Florence (1456-1470) cũng có mặt đứng thiết kế theo phong cách Phục hưng nhưng vẫn sử dụng nhiều chi tiết trang trí của kiến trúc truyền thống vùng Florence thế kỷ XI với những ô trang trí dạng hình học được ốp-bằng đá trắng và đá xanh; Alberti cũng bắt buộc phải giữ lại một số chi tiết theo phong cách Gôtích như những vòm cuốn nhọn ở tầng dưới và những ô cửa sổ hoa hồng ở tầng trên. Đặc điểm nổi bật trong thiết kế mặt đứng của Alberti đó là sự tổ hợp khéo léo của các môtíp trang trí dạng hình vuông. Cũng như ở nhà thờ s. Francesco, Alberti đã cô' gắng tổ chức một mặt đứng hài hòa, thống nhất bằng cách sử dụng những hình cuốn tròn để kết nối hai mái thấp của hai gian bên với phần mái cao hơn của gian giữa giáo đường. Cách xử lý này sau đó được nhiều kiến trúc sư khác áp dụng trong thiết kế các công trình kiến trúc của thời Phục hưng. Với những thành tựu rực rỡ đó, trào lưu kiến trúc Phục hưng nhanh chóng lan rộng khắp Italia và lan ra cả Châu Âu.

  • Kiến trúc lâu đài Ducale
Sau Florence, Ubrino là thành phố thứ hai trên đất Italia tiếp nhận nhiều ảnh hưởng của kiến trúc Phục hưng. Ubrino là thành phố nằm trên một vùng đồi núi rộng, cách bờ biển phía Đông Italia khoảng 20 dặm, nằm dưới sự cai quản của Federigo da Monteíeltro. Thành phố có diện tích khoảng 3600 dặm vuông với 400 ngôi làng. Bản thân Federigo cũng là người theo chủ nghĩa nhân văn, rất trọng dụng các học giả tài năng. Francesco di Giorgio là kĩ sư của Federigo và là cha của kiến trúc sư Luciano Laurana, người sau này đã thiết kế lâu đài Ducale nổi tiếng. Đây là công trình tiêu biểu cho các công trình kiến trúc Phục hưng của Ubrino. Lâu đài Ducalc được xây dựng từ năm 1465 đến năm 1472 với mặt bằng được thiết kế theo lối tự do, phù hợp với địa hình đồi núi của khu vực; khác hẳn với cách tổ chức mặt bằng khép kín trong các lâu đài của các thương gia ở Florence. Tất cả các phòng trong lâu đài đều được thiết kế sáng sủa, thông thoáng và có tỷ lệ rất hài hòa, cân xứng, khác với lâu đài Medici hay Rucellai. Ở đây nhiều yếu tố kiến trúc truyền thống đã được vận dụng rất khéo léo, đó là hành lang có cuốn vòm gối trên các cột Corinth chạy bao quanh sân trong; ở tầng trên tác giả lại sử dụng các thức cột tiền tưởng gối trên hàng cột Corinth ở tầng một, tạo nên các phân vị dọc cho mặt đứng.





  • Kiến trúc Milan thời Phục Hưng
Ngoài Ubrino phải kể đến Milan cũng là thành phố nhanh chóng đón nhận làn sóng Phục hưng trong kiến trúc. 30 năm trước khi bị quân đội Pháp tấn công vào năm 1499, Milan là một trong những trung tâm quan trọng của phong trào nghệ thuật Phục hưng; thành phô này đã thu hút rất nhiều con người kiệt xuất của thời đại như Leonardo da Vinci và Donato Bramante ngay từ đầu những năm 1480. Văn hóa Phục hưng nhanh chóng lan tới Milan khi mà bá tước của Milan, Francesco Sforza dành cho Cosimo de Medici một lâu đài để làm trụ sở chi nhánh của ngân hàng Medici tại Milan, đây là sự kiện quan trọng mở đường cho việc phát triển mối giao lưu thương mại của Floren với các thành phố miền Bắc Italia. Công trình này sau đó trở thành Banco Medicino. Khi thiết kế cải tạo lại lâu đài có quy mô hai tầng này, Michelozzo đã giữ lại một số chi tiết kiến trúc trang trí bằng gạch và gốm theo kiểu kiến trúc truyền thống của Milan. Trên mặt đứng chính với nhiều chi tiết trang trí rườm rà kiểu kiến trúc Gôtích của miền Bắc, ông đã thiết kế mới phấn cổng vào với những đường nét rõ ràng, khúc chiết, nhấn mạnh lối vào. Đặc điểm định hình của Kiến trúc Milan giai đoạn này là sự kết hợp hài hòa giữa phong cách kiến trúc Phục hưng và phong cách Gôtích cổ, thể hiện qua nhiều công trình của Michclozzo và II Filarete như : Lâu đài Certosa, nhà thờ Carthusian xây dựng ở Pavia, ngoại ô của Milan.

  • Giai đoạn Thịnh kỳ Phục hưng
Vào cuối thế kỷ XV và trong suốt nửa đầu thế kỷ XVI, Italia bước vào giai đoạn Văn hóa Phục hưng thịnh kỳ với trung tâm của hoạt động văn hóa mới là Roma. Năm 1487, nhà đi biển Bartolomco Diaz đã phát hiện ra đường hàng hải mới sang Châu Âu qua mũi Hảo Vọng phía Nam Châu Phi, thay thế con đường đi qua Địa Trung Hải và Hồng Hải vẫn bị Thổ Nhĩ Kỳ bịt kín. Nhờ có phát, hiện này, các hoạt động thương nghiệp ở các thành phố miền Nam Italia sôi động hẳn lên, trong khi những thành phố miền Bắc suy thoái dần đi. Mật khác, giáo hoàng trước đáy bị cưỡng bức sang Pháp đã lại trở về Roma. Hy vọng giáo hoàng thống nhất được Italia lại nhen nhóm lên, khiến Rôma có một vị trí trung tâm quan trọng, trờ thành trung tâm giáo hội và là thành phố có nhiều điều kiện thuận lợi nhất cho kiến trúc phát triển. Đây cũng là thời kỳ có rất nhiều những kiến trúc sư vĩ đại đã góp phần làm ncn một giai đoạn phái triển rực rỡ của kiến trúc như: Leonardo da Vinci, Donato Bramante, Raphael Sanzio. Michelangclo Buonarroti, Baldassare Peruzzi, Giacomo Barozzi da Vignola,...Người dẩu tiên cần nói đến là Leonardo da Vinci, một học giả có những hiểu biết rất uyên thâm về nhiều lĩnh vực. Trong cuốn phác thảo của mình, ông đã trình bày nhiều nghiên cứu, phát minh và khám phá quan trọng, nhiều trang viết trong cuốn này và những bản vẽ minh họa kèm theo đã được lưu truyền rộng rãi qua nhiều thế kỷ. Đó là những nghiên cứu của ông về giái phẫu học, vẻ địa chất, sự lưu thông của khí quvển, chuyển động của nước, các đề xuất trong lĩnh vực kiến trúc, quy hoạch, và rất nhiều bản vẽ và phác thảo liên quan đến hội họa và điêu khắc. Nhiều bản vẽ khác cũng đã chứng minh cho những phái minh của ông về các lĩnh vực như: sáng chế cửa kênh đào, tàu ngầm, dù bay, máy bay lên thẳng, tàu lượn, xe tăng, súng ống, pháo đại bác và nhiều vật dụng khác phục vụ cho chiến tranh. Những nghiên cứu và kinh nghiệm của Leonardo đã giúp ông hiểu biết cặn kẽ về sự lưu thông cửa máu trong cơ thể người, giúp ông xác định đưực tuổi của trái đất, ông cũng đã chế tạo ra được kính viễn vọng để quan sát mạt trăng,... Đó là những phát minh, khám phá rất quan trọng mà cho tới mãi sau này con người mới có thể tiếp tục phát triển những nghiên cứu đó và tìm hiểu được cặn kẽ hơn các vấn đề mà ông đã nêu ra. Cũng trong cuốn sổ này, Leonardo đã có rất nhiều bản vẽ phác thảo các thiết kế mặt bằng nhà thờ theo dạng tập trung, những phác thảo được coi như khởi nguồn cho các thiết kế mặt bằng nhà thờ theo dạng tập trung sau này.

  • Kiến trúc nhà thờ St. Maria della Consolazione
Nhà thờ s. Maria della Consolazione ở Todi (bắt đầu xây dựng năm 1508) mà Cola da Caprarola thiết kế cũng mang nhiều nét tương tự như bản phác thảo của Lconardo da Vinci. Rất nhiều kiến trúc sư trong đó có cả Donato Bramante đã cộng tác để thiết kế nhà thờ này. Nhà thờ s. Maria có mặt bằng là tổ hợp của một hình vuông với một nửa hình tròn và một gian nhà nguyện hình đa giác. Không gian có mặt bằng hình vuông là giáo đường của nhà thờ, phía trên được che phủ bằng một mái bán cầu. Trong một vở nhạc kịch sáng tác ở Milan, Leonardo cũng đã đưa ra một ý tưởng xây dựng một thành phố có hai tầng để tách riêng phần dành cho người đi bộ và phần dành cho các phương tiện cơ giới. Thời bấy giờ ý tưởng này là rất xa vời nhưng ngày nay, ý tưởng đó đã phần nào trở thành hiện thực. Năm 1485, ở Milan xảy ra một đại dịch, cướp đi tính mạng của 5000 người. Khi đó Leonardo đã đề xuất ý tưởng thay vì xây dựng, phát triển thành phố quá lớn thì ncn xây dựng những thành phố vệ tinh, mỗi thành phố khoảng 30. 000 dân; để nếu trường hợp không may xảy ra thì thiệt hại sẽ được giảm bớt đi rất nhiều. Trong những năm từ 1487 đến 1490 Leonardo và Bramante đã cùng trao đổi rất nhiều về dự định thiết kế nhà thờ Milan theo dạng mặt bằng tập trung hình chữ thập, tuy nhiên dự định này không được xây dựng. Năm 1499, quân đội Pháp tấn công vào Milan, chấm dứt sự thống trị của gia tộc Sforza, Leonardo được mời làm kĩ sư trong quân đội và chuyển tới vùng Cesare Borgia. Sau đó Ởng lại quay trở lại Milan và làm việc cho thống đốc quân đội Pháp, thậm chí còn trở thành họa sĩ, kiêm kĩ sư cho vua Louis XII. Năm 1516 ông chuyển tới Pháp dưới sự bao trợ của vua Francis I và sống ở gần d'Amboise cho tới lúc qua đời vào năm 1519. Là một trong những kiến trúc sư lớn nhất của văn hóa phục hưng Italia, Donato Bramante (1444-1514) trước khi đến Rôma vào năm 1499 đã hoạt động sáng tác kiến trúc ờ Milan, chịu ảnh hưởng của phong cách văn hóa Phục hưng tiền kì, là một kiện tướng của trường phái Lombardie.

  • Kiến trúc nhà thờ St. Maria della Grazie
Ở Milan trong những năm 1482-1499, Bramante và Leonardo da Vinci đã cùng trao đổi rất nhiều trong sáng tác. Có thể coi Leonardo như là người cộng sự đắc lực của Bramante, người đã có ảnh hưởng rất nhiều đến Bramante với ý tưởng về thiết kế mặt bằng nhà thờ theo dạng tập trung mà công trình đầu tiên của ông áp dụng dạng thiết kế này chính là nhà thờ St. Maria della Grazie. Đây là một nhà thờ trong lổ hợp nhà thờ lớn ở Milan - được xây dựng từ thời kỳ Trung thế kỷ. Nhà thờ St. Maria della Grazic được xây dựng từ năm 1492 đến năm 1497, gồm một gian giáo đường giữa, các gian bên và các phòng cầu nguyện; ông đã kết hợp dạng mặt bằng tập trung kiểu chũ thập với kiổu mặt bẳrìg giáo đường thời Trung cổ. Thiết kế của Bramante khá tương dồng với bản phác thảo về thiết kế mặt bằng nhà thờ dạng tập trung của Leonardo; còn trong thiết kế nội thất Ởng đã sử dụng một mái vòm bán cầu che phủ trên không gian trung tâm của giáo dường - một đặc điểm khá điển hình của các công trình Phục hưng. Tuy nhiên thiết kế ngoại thất của công trình lại mang nhiều đặc điểm của kiến trúc Milan truyền Thống, đó là sử dụng gạch và gốm ốp bên ngoài công trình.


  • Kiến trúc nhà thờ St. Sattro
Sau công trình nhà Thờ St. Maria tiella Grazie, thiết kế của Bramante càntỉ được hoàn thiện hơn qua công trình nhà thờ St. Sattro (1482-1492), cồng trình được xây dựng lại từ phần còn lại của một nhà thừ cổ từ thê' kỷ IX và gác chuông S. Satíro. Nhà thờ có mật bằng lập Trung dạng chữ thập, gian giáo đường có nhịp lớn hơn. Bức tưởng phía Siiu han thờ đổng thời là tưởng giới Tijan phía Donti, nơi bị giới hạn bởi một tuvến phố đã có, do đó làm hạn chế khống gian dành cho dàn hát thánh ca. Bramante đã khắc phục nhược điểm này bằng cách thiết kế phẳn bức tường sau gian thờ lõm sâu hơn so với mạt tưởng cùng phía, nên khi nhìn thẳng vào vẫn tạo ra một cảm giác không gian như đươc nới rộng ra. sâu thẳm và thoáng rộng, không có cảm giác thiếu hụt của không gian dành cho dàn hát thánh ca. Sử dụng khả năng tạo cảm cao về không gian của thuật vẽ phối cảnh, ông đã tạo nên một không gian mang tính ước lệ, thay cho không gian thực lế mà ồng muốn tạo ra. Cách xử lý sáng tạo này về sau được nhiều kiến trúc sư áp dụng trong suốt thế kỷ XV. Sau khi Milan bị quân đội Pháp tấn công năm 1499, Bramante đã rời Milan và chuyển tới Rôma. Tại đây, cũng như nhiều kiến trúc sư di trước như Brunelleschi, Alberti,... Bramante có nhiều điều kiện để nghiên cứu về những kiến Trúc cổ của thành phố, diều này đã có ảnh hưởng nhiều đến sáng tác của ông sau này. Điều kiện lịch sử và thực tế Rôma đã làm cho bút pháp của Bramante thay đổi và trở nên vững chắc một cách khác thường. Những công trình của ông xây dựng ở đây đéu mạnh mẽ, sống động và tạo nên một cốt cách tiêu biểu của Kiến trúc văn hóa Phục hưng thịnh kỳ.


  • Kiến trúc nhà thờ St. Pietro
Năm 1502, một cơ hội tuyệt vời đã đến với ông khi Vua Tây Ban Nha - Ferdinand và hoàng hậu Isabella giao cho Ông thiết kế một công trình tướng niệm đặt ngay tại nơi mà Thánh Peter đã hy sinh vì đạo - cạnh nhà thờ St. Pietro Ở Rôma. Công trình này chính là đền Tempietto. Và phong cách Bramante đã thực sự được chứng minh qua tác phẩm này. Công trình Tempictto của Bramante, được xây dựng từ 1502-1510, được coi là công trình kiến trúc đầu tiên của nền kiến trúc văn hóa Phục hưng thịnh kì, "một mẫu mực của cái đẹp lí tưởng", coi trọng tính thể khối, bố cục đơn thể công trình, hay thiết kế chi tiết: thức cột, lan can, terrace,... được tạo nên bởi mối liên hệ giữa chúng với không gian xung quanh. Hiệu quả thẩm mỹ không thể chỉ xuất phát từ tính chất đặc của mặt tưởng nếu không có tính chất lỏng của không khí ở môi trường xung quanh phù trợ. Bramante tổ chức cái đẹp theo nguyên tắc "Một công trình phái sống trong bầu không khí nào đó và ánh sáng sẽ làm sống dậy hình khối của nó". Ngôi đền được thiết kế với mặt bằng hình tròn, có hai tầng. Tầng 1 được bao quanh là 16 cột Doric. Tầng 2 có lan can rộng, tựa lên hàng cột ởtầng 1. Toàn bộ ngôi dền đặt trên một bệ tam cấp. Lối vào được thiết kế bên trong vòng cột Doric, đối diện với ban thờ và mặt chính của đền, nơi có cửa vào, được phân biệt với cấc mặt khác bởi bậc thang khiêm nhường dẫn lên. Ngầm phía dưới công trình là một hầm mộ nhỏ. Mặc dù phần không gian tròn xung quanh ngôi đền không đuợc xây dựng theo như thiết kế của Bramante, nhưng với những tỷ lệ chuẩn mực, hài hòa, ngôi đền vần là một trong những công trình tiêu biểu của kiến trúc Phục hưng thịnh kỳ. Cho hay kích thước tuyệt đối không phải là thước đo của một kiệt tác. Tempie Uo chỉ là một công trình kiến trúc có đường kính 9,15m, đường kính nhà tròn hành lang cột phòng thờ là 6,lm. Nếư đứng cạnh đồ án nhà Thờ St. Pietro của Bramanle sau này, Tempietto như được tạo từ một khối đá khiêm lốn đứng bên cạnh một quả núi. Có thế kinh nghiệm xây dựng Tempietto đã có một ảnh hưởng nào đó đối vơi quá trình thiếl kế nhà thờ St. Peter của Bramantc, một cồng trình thử tay trước một đồ án lớn nhưng đã là một phác Thảo tuyệt vời. Một công trình khác cũng rất tiêu biểu cho kiến trúc Phục hưng thịnh kỳ là lâu đài Pamese ở Roma. Lâu đài Famese được bắt đầu xây dựng từ năm 1517 theo thiết kế của Antonio da Sangallo (con), là lâu đài của gia đình giáo hoàng Paul III. Nâm 1546, giáo hoàng giao cho Michelangelo tiếp tục xây công trình. Ớ mặt đứng chính, Michelangelo đã thêm vào chi tiết phào mái và các gờ diềm của cửa sổ. Ở mặt đứng phía quay vào sân trong của lâu đài Famese, Michelangelo sử dụng các thức cột liển tưởng kết hợp với những đường gờ phân vị ngang tạo nên nét khỏe khoắn, bề thế cho cóng trình. Trong gian đoạn Phục hưng thịnh kỳ, những công trình xây dựng quan trọng nhất phải kể đến là quảng trường Capitol và nhà thờ St. Peter đều là những công trình to lớn. các điều kiện về ý đồ, về tư tướng chỉ đạo và của cải vật chất để xây dựng công trình đã được chuẩn bị đầy đủ; đúng như ý muốn của giáo hội, muốn biến Roma trở thành "một bài thơ ca ngợi sự hiển vinh của Chúa".


  • Kiến trúc quãng trường Capitol
Quảng trường Capitol là quáng trường thị chính ở Rôma, được khởi công xây dựng lại trên nền đất cũ vào năm 1540, dưới sự chỉ đạo của Michelangelo Buonarroti (1475-1564), người được coi là kiến trúc sư và nhà điêu khắc lớn nhất của thời bấy giờ. Để đáp ứng được ycu cầu chính trị là tưởng vọng về việc thống nhất Italia của giáo hoàng, quần thể quảng trường đã được xây dựng lại thành hình thang, với ba mặt là các công trình kiến trúc, mặt thứ tư hướng ra một đồi dốc và khu cây xanh bao quát cả một vùng thành phố. Michelangelo đã sửa đổi lại mặt đứng các công trình kiến trúc Viện nguyên lão ở giữa và Viện lưu trữ ớ bcn trái, xây dựng thêm Viện bảo tàng ở bên phải, biến quảngtrường thành hình thang đối xứng, dùng lối lên có bậc dốc và đặt thêm tượng để nhấn mạnh trục chính. Nhìn chung các vấn đổ về nghệ thuật tổ hợp kiến trúc như cân đối, ổn định, quy luật xa gần, hô ứng được chú ý nhiều hơn là vấn đề công năng. Hình khối của Viện nguyên lão, về cơ bản là giống hai công trình ở hai bên, nhưng cao hơn và có tháp. Mặt chính của nó được chia làm ba phần để xứ lý: tầng một của tòa nhà được biến thành bệ nhà để tăng thêm trọng lượng; tầng 2, tầng 3 dùng hình thức cột lớn cao suốt hai tầng để nhấn mạnh phân vị đứng. Mặt đứng của Viện lưu trữ và Viện bảo tàng cũng dùng hình thức cột cao suốt hai tầng đê nhấn mạnh quy mô hùng vĩ của kiến trúc. Đó là một sáng tạo độc đáo của Michelangelo, vì ở thời Trung thế kỷ trước đó chí mới dùng cột riêng cho lừng tầng một. Tuy vậy, loại cột cao suốt hai tầng này thường rất lớn, gây cho con người một cảm giác sai lệch về kích thước thật của công trình. Do đó, bên cạnh những cột chính, ở hành lang chính tầng dưới, tác giả thcm vào hai cột nhỏ để làm phong phú thêm tổ hợp kiến trúc của ngôi nhà, lấy lại cảm giác về tỷ lệ thật cho sự thụ cảm của con người dối với kiến trúc. Nhìn chung, toàn bộ kiến trúc của quảng trường Capitol cũng gây được ấn tượng mạnh mẽ như đicu khắc của Michelangelo. Quảng trường được hoàn tất vào rất lâu sau khi tác giả đã qua đời (năm 1644), vì thế ý đồ của tác giả phần nào có thể bị thay đổi.


  • Kiến trúc nhà thờ St.Peter
Cũng khoảng thời kỳ này, Michelangelo đã tham gia vào việc xây dựng nhà thờ St.Peter, một tác phẩm lớn cả về cấu trúc lẫn về ý nghĩa đối với phong trào văn hóa Phục hưng Italia. Lịch sử nghệ thuật đều thừa nhận rằng nhà thờ St. Peter ở Roma đã vượt lên trên các kiệt tác cùng thời khác, nếu xét trên nhiều mặt. Nhà thờ St. Peter ra đời trong bối cảnh chung của tình hình văn học nghệ thuật phục hưng: nó chịu tác động của những yếu tố tích cực và tiến bộ của chủ nghĩa nhân văn, của sự phát triển khoa học kỹ thuật và sự hướng về những quan niệm triết học duy vật cổ điển. Những cuộc đọ sức với chứ nghĩa phong kiến, với giáo hội của các phần tử trí thức tiến bộ dương thời đã dẫn đến nhiều thắng lợi trong văn hóa, nghệ thuật, mà một trong những thắng lợi quan trọng là thừa nhận sức mạnh và vẻ đẹp của con người. Sự xuất hiện của công trình nhà thờ St. Peter cũng không tách khỏi khung cảnh kinh tế, văn hóa, chính trị, tôn giáo mang nhiều nét đặc thù riêng của Rôma lúc bấy giờ. Nhà thờ St. Peter là công trình kiến trúc có sự đóng góp của nhiều nghệ sĩ lớn nhất Italia, đồng thời có quá trình thiết kế và xây dựng gặp nhiều sóng gió nhất so với các công trình kiến trúc của thời kỳ này. Trong hơn nửa thế kỷ, những thiên tài của nền nghệ thuật phục hưng như Bramate, Raphael, Michelangelo và nhiều kiến trúc sư nổi tiếng khác trong các thời gian sau đã tham gia vào việc hoàn tất công trình này. Triều đình La Mã đã huy động họ vào việc xây dựng công trình, nhằm thực hiện ý muốn của giáo hội là "nhà thờ La Mã phải trở thành đô thành ánh sáng bất diệt của thế giới". Nhà thờ St. Peler là nhà thờ rộng lớn nhất thế giới, có nguồn gốc từ một công trình Basilica cũ có từ thời Constantine (324-344).



  • Các kiến trúc sư tham gia thiết kế nhà thờ St.Peter
Trong số những kiến trúc sư tham gia thiết kế và xây dựng công trình, về ý đồ kiến trúc cũng như thực hiện cụ thể, người ta đánh giá cao nhất vai trò của Bramanle và Michelangelo. là hai kiến trúc sư có thể coi là bậc thầy của những bậc thầy khác. Donato dc Angclo Bramante (1414-1514) là người đã đặt cơ sở đầu tiên cho ý niệm không gian và giải pháp mặt bằng hình khối của nhà thờ này. Lịch sử ban đầu của biểu tượng của tòa thánh Vatican (hay nhà thờ St. Peter còn gọi là Basilica Vatican) chính là bán tổng kết các nguyên tắc nghệ thuật kiến trúc của Bramante.Giáo hoàng uỷ nhiệm Donato Bramante đảm nhận việc xây dựng nhà thờ St. Peter theo phương án được giải thưởng của ông vào năm 1505. Thời gian khởi công được quyết định vào mùa hè năm 1506. Trước hết Bramanle lìm ý cho công trình trên cơ sở quan niệm là một không gian kiến Trúc phái sáng sủa, hài hòa, gần gũi với con người, không có sắc thái thần bí. Mang hoài bão lớn xây đựng một tấm bia kỷ niệm của cả một thời đại, Bramante loại bỏ kiểu mặt bằng nhà thờ Basilica mà La Mã thường ưa chuộng, dựng lén một phương án mặt bằng kiểu tập trung có dạng hình vuông lớn lấy từ các nhà thờ "dị giáo” và nhà thờ Đông chính giáo Bvzantine với tổng diện tích là 24200m2. Ớ giữa hình vuông này ông thiết kế một chữ thập Hy Lạp, ờ phần giữa cua chữ thập này đặt vòm bán cầu chính của công trình mà phía dưới chính là nơi đã chôn thánh Phêrô. Trên bốn góc của hình vuông lớn, Bramante tổ chức bốn mái vòm bán cầu nhỏ, nhằm mục đích nhấn mạnh thêm vai trò trung lâm của vòm lớn và cùng với nó tạo thành bóng dáne chính cửa công trình. Như vậy công trình giống nhau cả bốn phía, không phân biệt chủ yếu, thứ yếu, mặc dầu vần có trọng tâm. Ổ phần trụ tròn tạo thành giá đỡ của vòm chính, Bramantẹ còn bô trí thêm một hàng cột thức quây tròn quanh chân vòm, tạo thành những phân vị đứng rất nhẹ nhàng, lịch lãm.

Kiểu mặt bằng tập trung, vuông vắn cùng với một hộ thong kết cấu mảnh nhẹ, cởi mở. có tiết diện hết sức thanh thoát sẽ tạo nên một không gian nội thất biến hóa. sáng súa, hoàn chỉnh và không gợn sắc thái thẳn bí. Đó cũng chính là đặc điểm đáng chú ý nhất của công trình: một sức biểu hiện mạnh mẽ qua một không gian tập trung thống nhất như vậy sẽ là phương tiện tốt nhất đổ dẫn dắt được ý niệm của con người từ cõi đời vật chất hòa nhập vào thế giới tinh thần. Qua đời vào năm 1514, tuy phải bỏ dở giấc mơ dẹp nhất của dời mình, nhưng Bramantc đã xác lập được những nguyên tắc kiến trúc mà sau này, qua nhiều đợt thay di đổi lại. người ta phải quay trở lại và thừa nhận chúng như những mẫu mực mang tính chất phương hướng. Hiệu quả về sự phóng khoáng của kiến trúc Bramante theo đuổi trong quá trình Thict kế khiến ông tạo nên hệ thống kết cấu nhẹ nhàng, hay quá nhẹ nhàng là khác nữa. Điều đó khiến những người kế tục ông đều thấy cần táng cường thêm độ lớn của bốn chiếc cột chính đỡ vòm đang xây dở. Sau này, có nhà thơ đã ca ngợi phương án xây dựng nhà thờ St. Peter cua Bramante, coi đó là một kì quan của thế giới, vì đã tạo nên được một sức truyền cảm mạnh nhất nhờ ở sự tập trung thống nhất khỏng gian, đã dùng kiến trúc để dẫn dắt đến sự thay đổi của ý niệm con người từ cõi đời vật chất đến thế giới tinh thần.


Tiếp theo, công việc xây dựng nhà thờ St. Peter được lần lượt úy nhiệm cho Raphael, Peiuzi, San Gallo, Michelangelo và công trình này đã thay đổi khá nhiều so với phương án ban đầu. Raphael (1483-1520) là cháu ngoại và học trò của Bramantc, xuất Thân là họa sĩ, được giáo hoàng chỉ định tiếp tục công việc đã thay đổi hẳn mặt bằng của Bramante. Theo chi thị của giáo hoàng, ông quay lại mặt bằng kiểu Basilica quen thuộc với truyền thống tôn giáo La Mã và đồng thời để chứa được nhiều tín đồ hơn. Phương án của Raphael có dạng hình chữ nhật, không gian bên trong chạy dài theo ba nhịp. Hơi hướng của mặt bằng hình bông hoa lớn giàu sáng tạo của Bramante giờ đây được thu nhỏ lại và có một vị trí vừa phải ở phẳn tận cùng của công trình, í rong dó có bốn trụ chính đở vòm lớn đang xây dở mang dấu ấn cũ của Bramante. Tuy vậy, trong hình thức mặt bằng Basilica mảnh và dài với chữ thập Latinh ở phần cuối cổng trình này, người ta Thấy lộ rõ một phưưng cách Gothic, nên một dấu hỏi lớn lại được đặt ra dối với phương án. Khí Raphact qua cíời, vấn đề giải pháp mặt bằng vẫn cùn dang phái tháo luận.

Khi Baldassare Peruzzi (1481-1536), cũng là học trò của Bramante, tiếp tục làm kiến trúc sư chính của công trình, thì ông lại quay lại với phương pháp xử lí kiến trúc của thầy học. Kiểu mẫu của phương án lại là một hình vuông lớn với một hình chữ thập Hy Lạp đặt hên trong vươn ra bòn phía bốn hình bán nguyệt; còn ở bốn đỉnh của hình vuông được thcm bốn không gian có hình vuông nhỏ. Nhưng không khí chính trị lúc bấy giờ không thích hợp với những quan niệm thế tục do các kiến trúc SƯ Phục hưng theo đuổi vì nhà thờ dang lo sợ những ngọn gió cải cách tôn giáo có thể gáy ra bão táp nên kiên trì việc khôi phục lại tín ngưỡng Trung thế ký cùng với kiểu mặt bằng nhà thờ Basilica của nó. Antonio da San Gíillo con (1485-1546) cũng là học trò của Bramante, đã trung hòa hai ý kiến ticn bằng một phương án có mặt bằng một phần kiểu tập trung, một phần kiểu Ba. silica. Nhưng óng cũng qua đời chỉ sau khi Peruzi mất mười năm, nên việc xây dựng văn ngừng trệ.


Quá nhiều sự kiện đã xãy ra cũng như quá nhiều quan điểm không nhất trí đã làm cho việc xây dựng giảm chân tại chỗ trong suốt 30 năm trời. Phải đợi đến khi Michelangelo (1475-1564) được giáo hoàng uỷ nhiệm toàn quyẻn chu trì việc xây dựng, những bước liến cơ bản gắn bó với số phận công trình này mới được thực hiện. Ống khôi phục lại mặt bằng kiểu tập trưng của Bramante, cố gắng tim còi, điều chỉnh một số không gian hình khối trên cơ sở nghiên cứu sâu sắc kiên trúc cổ Hy Lạp, cổ La Mã để áp dụng vào việc đáp ứng yêu cầu của giáo hoàng nhưng với ý chí vượt qua nghệ thuậi cổ đicn, "làm cho kiến trúc Hy Lạp, La Mã phải mờ nhạt". Củng như Bramante đã từng mong muốn "đặt những vòm của Parthéon lên những cuốn của Basilica Constantine", Michelangelo mang hoài bão lớn vượt qua kiến trúc nghệ thuật cổ điển, "làm cho kiến trúc Hy Lạp, La Mã phải mờ nhạt". Vào năm 1547, Trước khi chấp bút, Michelangelo đã thỏa thuận với giáo hoàng dành cho mình quyền quyết định phương án, kể cả việc gạt bỏ những phần đã xây dựng trong mấv mươi năm qua nếu thấy khỏng cần thiết. Michclangelo đã có những đóng gốp có tính chất quyết định cho công trinh này. Ông khôi phục và điều chính lại thiết kế của Bramante, làm sống lại ý đồ giải pháp mật bằng tập trung sáng sủa và hài hòa của Bramante. Tuy vậy, bộ phận mặt bằng của kiến Trúc chữ thập Hy Lạp bấy giờ được ồng để cho lấn át toàn bộ hình vuông lớn bao quanh cùng với hộ thống kết cấu được tăng thêm độ đây một cách đáng kể đã làm cho công trình của ông có sức mạnh hơn, Trong khi đó, ta thấy phương án trước dây của Bramantc lại có vẻ trội hơn về vẻ tế nhị và tính duyên dáng. Ở mặt bằng của mình, khác với vẻ đối xứng quay tròn như một bông hoa đều bốn cánh của Bramante, Michelangelo đã đột xuất nhấn mạnh xử lí mặt trước bằng cách bố trí khác đi phần tiển sảnh và lối vào có hàng cột thức. Michelangelo cũng đã đây công nghiên cứu chiếc vòm chính đồ sộ, thành phần quan Trọng nhất xác định toàn bộ phong cách của nhà thờ St. Peter. Chiếc vòm mái vô song trong lịch sử kiến trúc này có đường kính 41,9m, chiều cao 52m (nếu tính từ mặt nền công trình đến đỉnh vòm, kích thước toàn bộ là 137,8m). Với hai lớp vỏ để làm cho bên đó để dựng lên được những hình ảnh tượng trưng cho cả một thời đại.


Mặc dù bị ảnh hưởng ít nhiều của giáo hội nhưng nhà thờ St. Peter vần là biểu hiện mạnh mẽ về sự chiến thắng của những tư tưởng tiến bộ của thời đại văn hóa Phục hưng, nhất là sau khi Michelangelo đã dựng lên được chiếc vòm mái của công trình, kết thức một giai đoạn quan trọng trong việc định hình toàn bộ không gian khối tích ciia nhà thờ St. Peter.
Về sau, trong những năm 1656-1667 Bernini đã tô điểm thêm cho vẻ đẹp của cả quần thể Vatican này một cách đáng kể bằng việc thiết kế và hoàn thiện quảng trường hình elip với những hàng cột thức 284 cột Dorich, trên đặt hàng loạt diêu khắc tượng tròn rất tráng lộ, vòng khép lại và kéo dài thành một diện tích hình thang ngoài phần vòm có độ dốc cao hơn, bôn trong vòm có độ dốc thoải hơn, chiếc vòm mái cửa nhà thờ St. Peter như được kéo cáng ra bơi một lực vận động mãnh liệt nội tại, ấn tượng này càng thêm hoàn chỉnh do có thêm hệ thống sống đứng của vòm mái phía dưới lên đến lận đỉnh vòm, nơi có tháp đèn chót vót. Toàn bộ chiều cao của nhà thờ từ đất đến đỉnh mái là 137,8m.

Sau khi Michelangelo qua đời, một số công viêc xây dựng tiếp tục được giao cho Giacomo de Porta và Domenico Funtana (vào những năm 1590). Hai ông này đã thêm vào mười mấy cái xích sắt ữ đáy vòm đé cho thêm chắc chắn. Ngoài ra phải kể đến đợt tấn công cuối cùng của giáo hội vào nhà thờ St. Peter, công trình mang đầv vẻ trong sáng thế tục này, vào những thập kỉ đầu tiên của thế kỷ XVII. Vào thời kỳ Jesu giáo đoàn, một tổ chức chống lại cải cách tôn giáo lèn nám quyền, kiến trúc sư Carlo Madecna, người Thuỵ Sĩ (1556-1629) đã bị buộc phải xây dựng thêm (vào những năm 1607-1614) vào phía trước nhà thờ St. Peter một khối nhà kiểu Basilica có chiều cao 45,7m, chiều ngang 115m, với hàng cột thức cao 27,6m trên mặt đứng nhưng lại chỉ phân vị thành hai tầng nhà. Điều đó làm tổn hại một cách đáng kể đến vẻ đẹp nguyên thủy của công trình này mà biết bao nghệ sĩ lớn đã gửi gắm cả một phần sự nghiệp của mình vào phía trước mặt đứng của nhà thờ với mục đích làm tăng thêm cho hiệu quả của kiến trúc. Quáng trường này được xếp vào loại xây dựng công phu, rộng và đẹp nhất thế giới.

  • Giai đoạn hậu kỳ Phục hưng
Từ nửa sau thế kỷ XVI trơ đi, các hoạt động kiến trúc ở Italia lúc bấy giờ chuyển về Venise, một thành phố thương nghiệp sẩm uất, một "nhà bảo tàng lớn” của nghệ thuật Phục hưng Italia hậu kỳ. Khác giai đoạn phục hưng Tiền kỳ và Thịnh kỳ với các công trình kiến trúc thường được áp dụng các yếu tó kiến trúc cổ điển theo đúng nguvên mẫu chuẩn mực, Thì giai đoạn hậu kỳ, các kiến trúc sư lại muốn đưa vào công trình các yếu tố cổ điển nhưng lác giá Thiêt kế đã có những biến đổi theo phong cách riêng của mình, không theo kiểu truyén thông thường thấy như ở các giai đọan trước. Vì vậy phong cách kiến trúc Phục hưng giai đoạn Hậu kỳ còn được gọi là Chủ nghĩa thủ pháp (Mannerism). Đến thời kỳ này, số lượng các kiến trúc sư hay đốc công, thợ cả nghiên cứu kỹ càng về kiến trúc truyền thống khá hạn chế; một số khác chỉ cãn cứ vào sách vở nên những hiểu biết về các hình thức kiến trúc cổ điển không toàn diện, không cơ bản. Đến khi họ sứ dụng những người thợ làm việc thì những người này lại thêm thắt các ý tưởng cá nhân vào; xu hướng tự Thêm thắt vào kiến trúc phong cách Phục hưng những chi tiết kiến trúc Gôtích cũng là một bộ phận của chủ nghĩa thủ pháp. Đặc điểm của kiến trúc thời kỳ này là quy mô nhỏ, xây dựng nhà ở là chính, với hình thức rất kiểu cách.

Các kiến trúc sư tiêu biểu của thời kỳ này là Raphael Giorgio Vasari (1511-1574), Giulio Romano (1475' 1564), cũng là những người chịu nhiều ảnh hưởng của kiến trúc sư Michelangelo Buonarroti của thời Phục hưng Thịnh kỳ và một kiến trúc sư có thể nói là lỗi lạc nhất cua chủ nghĩa thủ pháp Italia bấy giờ là Andrca Palladio (1508-1580). Tiêu biểu cho kiến trúc Phục hưng Hậu kỳ chính là các công trình theo phong cách Palladio.
Thuật ngữ Palladian xuất phát từ tên họ của kiến trúc sư Andrea Palladio. Palladio đã nghiên cứu rất sâu sắc về kiến trúc cổ ở Rôma và ông là tác giả của một bô sưu tập rất lớn những kiến trúc đền đài, cung điện, nhà hát và các kiểu biệt thự cũng như nhiều quyển sách về lí luận kiến trúc. Năm 1570 ông đã xuất bản cuốn I Quattro Libridetr Architettura hay cuốn Four Books of Arcừecture (Bốn cuốn sách vể kiến trúc), trong đó luận bàn về kiến trúc do ông thiết kế và kiến trúc cổ. Các công trình kiến trúc Palladio khá đa dạng, bao gồm: nhà thờ, dinh thự, biệt thự và một số công trình công cộng khác. Phong cách này có ảnh hướng sâu sắc và lâu dài đến nhiều hoạt động kiến trúc ở các nước Châu Âu khác. Kiến trúc Palladio thường có các đặc điểm nổi bật là : Có hàng cột thức gíầu trang trí (porticoes); Các công trình tuân theo một sự đối xứng nghiêm ngặt; nhịp điệu đặc - rỗng - đặc được nhấn mạnh; Những biệt Thự do Palladio thiết kế thường được xây dựng trên một bệ lớn, phía trước có những bậc thang dẫn lênnhằm nhấn mạnh sự bề thế cho cồng trình.
Một đặc điểm quan trọng khác của kiến trúc Palladio là những cột rấí đồ sộ, gọi là môtíp Paladio, đặt ở hai bên. Motip này là giữa hai cột to đó có hai cột nhỏ hơn gắn với lối vào nhằm lấy lại tỷ xích thích hợp, kiểu Palladio này về sau được sao chép rất nhiều. Công trinh tiêu biểu cho phong cách này của Palladio là biệt thự Foscari và biệt thự Rotonda.


Biệt Thự Foscari
  • Kiến trúc biệt thự Foscari
Biệt Thự Foscari được xây dựng trong khoảng năm 1559- 1560, hên bờ kênh Brenta, ngoại ô Venisc. Công trình được thiết kế đối xứng qua một trục giữa, với dự định tổ chức các sân rộng ở bên cạnh đổ tạo không gian chuvên tiếp từ ngoài tới mặt đứng, tuy nhiẽn thực tế thì các sân này chưa được xây dựng. Các bậc thang đối xứng hai bcn mặt đứng chính dẫn lên sảnh vào có hàng cột thức. Lối vào dẫn thẳng đến khòng gian được thiết kế theo dạng vòm chữ thập chạy suôi chiều sâu công trinh. Tất cả các phòng của biệt thự đều được thiết kế tuân thủ chặt chẽ những tỷ lệ cân xứng như: 1:1, 2:3, 1:2, 3:4. Tỷ lệ giữa chiều dài và chiều rộng công trình tuân theo đúng tỷ lệ vàng 8:5; còn chiều cao tổng thể được lấy gần bằng chiều rộng của công trình.

Biệt Thự Foscari
  • Kiến trúc biệt thự Rotonda
Biệt thự Rotonda hay còn gọi là biệt thự Americo Capra mới là công trình tiêu biêu nhất cho phong cách Palladio. Công trình được ông xây dựng trong những năm 1566-1570 tại quẽ hương, vùng ngoại ô Vicenza. Ngôi biệt thự được xây dựng trên một đổi cao, mặt bằng có dạng hình chữ thập hoàn toàn đối xứng, hướng ra bốn phía, mỗi phía đều có một hành lang trống có sáu cột, ớ giữa cỏ một sảnh tròn, phía trên là lớp vòm bán cầu. Biệt thự Rotonda là tác phẩm thể hiện một cách đầy du nhất lý thuyết kiến trúc của Palladío: trật tự của tổ hợp kiến trúc được thc hiện ở mức cao nhất; có chủ vếu, có trung tãm và tuân theo tỷ lệ nghiêm ngậl của nghệ thuật kiến trúc cổ điển. Nhưng ở biệt thự Rotonda, chủ nghĩa thủ pháp được thể hiện một cách cao độ đã biến thành chủ nghĩa hình thức; Palladio không chú ý đến công năng hình thức đối xứng cả bốn phía nên đã khiến cho các mặt hướng nắng, chiếu sáng, thông gió của công trình đều có nhược điểm lớn. Do đó, nêu đem Rotonda làm một ngôi nhà để ngoạn cảnh thì hợp lý hơn là ngôi nhà ở. Gocth đã nhận xét về tòa biệt thự này như sau: "Ngôi nhà có thể gọi là liện lợi để dừng chân, nhưng không phái là nhà ở. Tuy vậy, với phong cách cao ngạo của một biệt thự đặt trong một trang viên với hình thức trong sáng và hài hòa, sự chọn lọc của mật đứng cùng với tính chất quý tộc của nó, toàn bộ biệt thự Rotonda đã rất được con người hổi đó tán thưởng. Kiểu cách tòa biệt thự này về sau có ảnh hướng rất lớn ở Châu Âu, thậm chí ở Anh, có nơi đã sao lại mẫu thiết kế để xây dựng. Biệt thự Rotonda được xây dựng không tách khỏi quan niệm của thời kỳ này về kiến trúc: chỉ chú ý đến vấn đề mĩ quan dựa trên quy luật tổ hợp, mà xa rời những yêu cầu về chức năng sử dụng, yếu lố quan trọng nhất để tạo thành công trình kiến trúc.

Biệt thự Rotonda


Biệt thự Rotonda

Lý luận kiến trúc thời đại Phục hưng
Nghiên cứu và thực tiễn kiến trúc thời đại Phục hưng đã đưa đến cho đất nước Italia một nền lý luận kiến trúc rất phát triển và sôi động, có anh hưởng sâu rộng đến lý luận kiến trúc của thế giới thời đó và cả sau này. Năm 1458. Leone Batista Alberti (1404-1472) xuất bản cuốn ”Bàn về Kiến trúc” (De Re Edification), một tác phẩm lý luận kiến trúc quan trọng, đã có tác dộng lớn đến sự phát triển lý luận kiến trúc của nhiều giai đoạn. Sau dó. cùng với Alberti, đại diện cho tư tưởng kiến trúc Văn nghệ Phục hưng thịnh kỳ còn có Francesco Colona, Antonio Averlino (lứt Filarctc, 1400-1469). Đại diện cho lý luận kiến Trúc Văn nghệ Phục hưng hậu kỳ (Chủ nghĩa rhủ pháp), có các kiên trúc sư tiêu biểu là: Francesco di Giorgio Martini (1439-1501), Sebastiano Serlio (1475-1554), Andrca Palladio (1508-1580) và Scamozi. Palladio là tác giả của bộ sách "Bốn quyển sách về Kiến trúc" (II Quatro Libri dell’ Architectura) (1570) và cuốn "Quy phạm năm loại thức cột" (Regola delle Cinque Ordini) (1562).
Như vậy, vể lý luận mà nói, các kiến trúc sư thời đại Phục hưng có thể chia thành hai nhóm, nhóm Văn nghệ Phục hưng thịnh kỳ giàu tính sáng tạo và toàn diện hưii. nghicn cứu sâu về lý luận cơ bản và chú trọng đến tư tưởng nhân văn chủ nghĩa hơn. Nhóm thứ hai là các kiến Trúc sư văn nghẹ Phục hưng hậu kỳ, thiên về nguyên lý và có phẳn giáo điều, nghiên cứu các tác phẩm kiến trúc theo nguyên tắc cổ điển và nặng về lổ hợp thức cột. Tuy vậy, cả hai nhóm này đều chịu ảnh hưởng của Vitruvius và những cuốn sách của họ đcu xứng đáng là sách giáo khoa cho nhiều thế hệ kiến trúc sư sau này. Lý luận kiến trúc thời đại Phục hưng quan tâm đến những vấn để sau đây.
  • Vấn đề thực dụng, kinh tế và mỹ quan.
  • Cho rằng cái đẹp là khách quan.
  • Cho rằng cái đẹp là hài hòa và hoàn chỉnh.
  • Nghiên cứu quy luật của cái đẹp.
  • Quan lâm đến chủ nghĩa nhân văn trong cái đẹp.
Về vấn đề thực dụng, kinh tế và mỹ quan, những luận điểm này được tiếp sức bới sự phát triển của chủ nghĩa duy vật, việc xuất bản tắc phẩm của Vitruvius và sự kiểm nghiệm của thực tế kiến Trúc Phục hưng nên đã đưa đến những khái niệm mới mà kiến trúc cần quan tâm là: nhu cầu (Necessity), thích dụng (Convenience), sử dụng (Use), gây thích thú (Pleasure). Đó là những khái niệm mà sau này muốn phát triển kiến Trúc đcu phải động chạm đến. Alberti còn cho rằng: "Nếu không tiết kiệm, sẽ không có cái đẹpchân chính", "Kiến trúc, không nghi ngờ gì nưa, là một bộ môn khoa học hết sức cao quỷ, mà không phải bất cứ người nào củng làm được". Về quan điểm cái đẹp là một sự tồn tại khách quan, Alberti cho rằng, cái đẹp khách quan tồn tại trong bản thân nội kiến trúc, sức hấp dẫn làm đẹp là kết quả của việc con người nhặn thấy cái đẹp: "Nếu bất cứ mọi sự vật đêu cần đẹp, thì kiến trúc không thể không dẹp" (Cuốn VI, Tiết 2), và kiến trúc không hoàn toàn là trang trí: "Cái đẹp là nội tại, trang trí chỉ là cái thêm vào sau" (Cuốn VI, Tiết 2).


Về vấn đề cái đẹp là sự hài hòa và hoàn chỉnh, từ thời cổ đại, Aristotc, Pithagore, Vitruvius đều xem sự hài hòa là hàm nghĩa cơ bản nhất của cái đẹp. Các kiến trúc sư Phục hưng văn coi trọng quan điểm đó, Alberti cho rằng: "Tôi cho rằng Đẹp là sự hài hòa của cúc bộ phận, bất luận với chã đề nào, các bộ phận này đều nền được điều tiéi theo tỷ lệ và mối quan hệ để sao cho không thể thêm vào hoặc bớt đì bất cứ cái gỉ, trừ khi cố ý phú nó đi". Palladio cũng nói: " Cái đẹp sản sinh ra từ hình thức, sản sinh ra từ sự hài hòa giữa tổng thể và cúc bộ phận, sự hài hòa qiữa các bộ phận với nhau, kiến trúc do đó như một cụ thể hoàn chỉnh vá toàn diện, mỗi một khi quan đều thích ứng với các bộ phận khác, và điều đó đối với các yêu cầu của bạn đều là cần thiết". Alberti cũng giái thích môt khái niệm về tính thống nhất (Congruity) trong kiến trúc: "Có một sự vật hợp thành bởi sự kết hợp và liên hệ của các bộ phận mà đưa đến cái đẹp và sự tao nhã tổng thể, đó là tính thống nhất, chúng ta cố thể coi nó như là cội nguồn của tất cả các sự vật đẹp. Vai trò của tính thống nhất là đem bản chất của tất cả các bộ phận khác nhau cấu thành một tổng thể đẹp".
Về quy luật của cái đẹp, những người theo phái Palladio và Palladio mới, do bị ảnh hường của chủ nghĩa duy tâm khách quan nên gắn bó quy luật của cái đẹp với toán học, quá cường điệu sự duy lý của toán học, nhấn mạnh "tính phổ biến", "tính vạn năng" và "lính vĩnh cửu" của toán học, cho nên đã thoát ly thực tế và không còn trung thành với những nguyên tắc của Vitruvius. Chẳng hạn Serlio Palladío đã làm Thức cột bị "đông cứng", tự ý sửa đổi những "cái cần dùng", "cái chủ thể", vị trí, kích thước của một số bộ phận kiến trúc, họ cho rằng mối liên hộ toán học đó là do Thượng đế an bài, chính vì vậy họ đã gắn bó kiến trúc với thần học. Quan điểm của Alberti tiến bộ hơn, Ông sử dụng những khái niệm cho rằng cái đẹp tồn tại là tồn tại khách quan của Vitruvius và nói "Các bộ phận của kiến trúc, không nghi ngờ gì nữa nên chịu sự khống chế của một sô Í/ỈIV tắc díclì (hực của nýìệ thuật vù tỷ lệ, bất chấp một số người nào đó coi nhẹ những quy luật nào.. Có một số người bất luận như thế nào không thể dồng ỷ với điểm đó, họ nói rằnq con nqười khi bình luận Cái dẹp và công trình kiến trúc cú rất nhiêu loại kiến giải khác nhau, chờ nên, hình thức của tổ hợp Hổn căn cứ vào thị hiếu đặc biệt và trí tướng tượng của một sô' người mả thiên biến vạn hóa, quyết khônq có thể bị bó buộc bởi bát cứ quy luật nào của nghệ thuật. Cách nói này cũnq là sự dúnh giá thấp sự không hiểu biết của họ" (Cuốn IX, Tiết 5).
Điều Alberti muôn nói đến chính là sự hài hòa của hình học và sổ học. Quy tắc này tổn lại và chi phối khắp vũ trụ. Các lý luận gia Văn nghệ Phục hưng cũng tin tưởng lằng thế giới là thống nhất, vạn vậi trên thế gian tồn tại một sự hài hòa mang tính phổ biến.
Francesco Colona cho rằng, một công trình kiến trúc không chỉ tự nó hoàn tất mà nên là một thành phần cấu thành của sự hài hòa của toàn bộ thế giới, nó nên phục lùng chỉnh the cua thế giới. Quy iuật nội tại của cái đẹp kiến trúc nhất trí với quy luật khống chế Thè giới. Đó là quy luật của Toán học. Alberti nói: "Vũ trụ vận động một cách vĩnh hằnq, tronq tất cả các động tác của nó quán triệt một sự tương tự bất biển. Chúng ta người mượn từ các nhà âm nhạc tất cá các quy luật của mối quan hệ hài hòa đỏ" Francesco di Giorgio Martini nói: "Không có bất cứ một loại hình nghệ thuật nào của nhân loại có thể tách khỏi Thuật toán và Hình học mà lại tìm được thành tựu". Mối quan hệ số lượng giản đơn không nghi ngờ gì nữa là một biện pháp quan trọng đại được mội tỳ lộ hài hòa, tuy vậy, ta không bao giờ nên coi đó là quy tắc duy nhất, thậm chí không phải lúc nào cũng cần thiết, không cẩn thận sẽ đi đến quá khích.
Một số lý luận gia Văn nghệ Phục hưng về mặt này rơi vào một sự hỗn loạn về triết học. Họ rơi vào Tiên nghiêm luận của chủ nghĩa Duy tâm, muốn xây dựng một số quy tắc sần trong đầu mọi người vể cái đẹp hình thức của kiến trúc, cho ràng cẩn có một sự sáp xếp trước (Preordering) một cách máy móc. Khái niệm chủ nghĩa nhân văn trong kiến trúc xuất phát từ chủ nghĩa nhân văn íhời đại Phục hung, cũng bắt đầu lừ sự trích dản quan niệm coi sự cân bằng và đối xứng chính là sự hoàn mỹ và chuấn mực của Vitruvius. Lconardo da Vinci đã lìm ra hình dáng chuấn mực và tỷ ]ệ hoàn mỹ của con người, từ dó đi đến việc tìm đến cái đẹp trong kiến trúc, thùa nhận vỏ đẹp của con nguời và Thừa nhận vẻ đẹp của thức cột, Thừa nhận sự có thể câm nhận được quy luật của cái đẹp, thừa nhận tính phổ biến của quy luật của cái đẹp, kích thích con người nghiên cứu tính nâng động của quy luật đó và thức đẩv sự khoa học hóa lý luận tổ hợp của kiến trúc.

  • Kiến trúc Phục hưng ở Pháp
Kiến trúc Phục hưng với sự phát triển mạnh mẽ cùng với những thành tựu nổi bật đã nhanh chóng phát triển vượt ra khỏi biên giới Italia và lan rộng khắp Châu Âu. Sau Ilalia, Pháp là nước Châu Âu có nền kiến trúc Phục hưng phát triển rục rỡ hơn cả. Khí quân đội Pháp tấn công vào Italia thì kiên trúc Phục hưng cũng nhanh chóng lan từ Italia sang Pháp.
Năm 1494, quân đội Pháp dưới sụ chi huy của vua Charles VIII tấn công Italia với mục đích xâm chiếm và trở thành bá chủ cả vùng Naples. Năm 1498, quân Pháp tấn công Milan, chấm dứt sự bá chu của gia tộc Sforza. Vua Francis I còn tiếp tục chiếm giữ nưi đây cho tới tận năm 1525 mới trao trả Milan lại cho Italia sau khí bị đánh bại ở Pavia. Mậc dù nằm dưới sự thống trị của Pháp trong suốt một thời gian dài nhưng kết quả lại là nghệ thuật Phục hưng Italia với những thành tựu rực rỡ của mình đã có ảnh hường sâu rộng đến nền nghệ thuật và đặc biệí là kiến trúc Pháp. Cuối thế kỷ XV, Pháp chuyên từ một nước theo chế độ phong kiến sang một nưóc liên thành bang do vua đứng đầu, triéu đình thống trị toàn xã hội và chính nhà vua đã định hướng thiết kc các công trình theo phong cách Phục hưng Italia. Thành phố Milan trở thành trung tâm trong mối quan hệ giũa Italia và Pháp. Từ những năm cuối thế kỷ XV, người Pháp đã chuyển lải nghệ thuật Itaỉia về nước họ, mời nhừng nghệ sĩ và các kiến trúc sư miền Bắc tới dảm nhiệm việc thiết kế và xây đựng cổng trình và họ cũng đồng thời cử những nghệ sĩ Pháp sang ltalia, để theo học phong cách kiến trúc Phục hưng.
Đầu thế kỷ XVI. trung tâm văn hóa của Pháp không phải là Paris như ngày nay mà là vùng thung lũng Lotre. Nơi đây nhà vua và quý tộc đã cho xây dựng rất nhicu lâu đài làm nơi nghỉ ngơi thư giãn, nơi dừng chân nghi sau những cuộc săn bắn,... Những lâu đài này chính là những công trình đầu tiên của Pháp xâv dựng theo phong cách Phục hưng. Lâu đài Blois là công trình thể hiện rất rõ sự chuyển tiếp từ kiến trúc Pháp Trung thế kỷ sang kiến trúc Phục hưng. Lâu đài được xây dựng từ thế kỳ XIII theo phong cách kiến trúc cổ, được thiốt kế có sảnh lớn rộng với các gian phòng thiết kế bao xung quanh. Giữa những năm 1498-1504, Vua Louis XII đã xây thêm cánh phía Đông, kết hợp với cổng dẫn vào một sân trong lớn. Công trình sử dụng gạch dỏ và đá sáng mầu xây ớ các góc, xâv viền bao quanh cửa đi. cửa sổ - dây là đặc điểm thể hiện những ảnh hưởng của kiến trúc cổ trong thiết kế lâu đài. Phía trên lối vào có đặt một bức tượng lớn tạc hình vua Louis XII cưỡi ngựa, đặt trong một hốc tưởng lớn có dạng vòm nhọn kép cùng các chi tiết trang trí khác trcn đá cùng được thiết kế theo kiểu phong cách Gothic.

Lâu đài Blois

Cửa sổ các tầng đuợc thiết kế thẳng hàng, kết thức là một mái dốc với những vòm trang trí cầu kỳ, linh xảo kiểu Gothic. Những mái vòm này được lặp lại tạo nên những nhịp theo phương đứng, trong khi những bức tưởng gạch đá và gờ phào nhấn mạnhnhững phân vị ngang. Giữa những năm 1515-1524, Francis I bắt đầu xây dựng mớ rộng lâu đài Blois, xây thcm cánh phía Bắc nối từ sảnh trung tâm kiểu cổ tới mặt phía Bắc của sân trong. Francis I đã cho phá phần tháp cũ để xây dựng tại đó một cầu thang xoắn dẫn lên các tầng. Tất cả các phòng được tổ chức tiếp nối theo chiều dọc, kiểu kiến trúc Pháp truyền thống. 0 mặt đứng quay ra phố của cánh nhà do vua Francis xây dựng được thiết kế rập khuôn theo kiểu lâu đài của giáo hoàng ờ Vatican và Picenza với một khối nhô ra không có cột đỡ dưới gồm 2 lôgia và sân thượng trên tầng 3. Công trình có sự kết hợp khá hài hòa giữa các thức cột cổ điển với những chi tiết trang trí theo môtíp Gothic. Nếu như lâu đài Blois được xây dựng trong thành phố thì Chambord (1519-1547) lại là một lâu đài được xây dựng ở ngoại ô theo kiểu kiến trúc nông thôn, không có tưởng bao ngoài, được xây dựng theo những tỷ lệ cân xứng của kiến trúc Phục hưng cùng với những chi tiết trang trí theo kiểu cổ. Đây là thiết kế của kiến trúc sư Italia là Domenico da Cortona và Pierre Nepver. Tuy chỉ là một lâu đài đi sãn của Hoàng gia, nhưng Chambord dung nạp được cả một triều đình, nó là tác phẩm kiến trúc hoành tráng đầu tiên đánh dấu sự thống nhất của đất nước Pháp, là một công trình kỷ niệm mớ đầu một thời đại mới cho nước Pháp.

Lâu đài Blois
  • Kiến trúc lâu đài Chambord
Lâu đài Chambord có hình dáng chủ đạo là hình chữ nhật, ở giữa có sân trong, mặt phía Bắc cao ba tầng, ba phía kia là một tầng, bốn góc có bốn tháp lâu, khối nhà chính hình vuông cao ba tầng, cũng có bốn tháp lâu nhô ra khỏi khối vuông đó, mỗi cạnh dài 67, lm. Mỗi tầng của khối kiến trúc chính này có 4 phòng lớn, tạo thành một không gian hình chữ thập, giữa chữ thập đó có 1 cầu thang tròn lớn đóng vai trò như một hạt nhân. Trong các tháp lâu cũng đều có các đại sảnh và điều tiến bộ của các cánh nhà là sự chia thành các dơn nguyên độc lập, bao gồm một phòng lớn và một khối vệ sinh cho đội ngũ tùy tùng. Ngoại hình của lâu đài Chambord rất đáng quan tầm, nó thổ hiện sự mâu thuẫn trong kiến trúc của một thời đại khởi đầu mới, dùng một sự cân xứng nghiêm ngặt trên mặt đứng đổ đi tìm một hình thức kiến trúc đại diện cho nhà vua, người đại diện cho nước Pháp thống nhất, gạt bỏ bố cục tự do của kiến Trúc Pháp trước đây. "Khầu vị" củatriều đình Pháp lúc bấy giờ thể hiện đầy đủ trên mặt đứng là sử dụng thức cột Italia và nhấn mạnh phân vị ngang. 0 các góc của lâu đài được thiết kê' các tháp lâu có dạng hình trụ. Đc tăng cường tính phòng thủ, chống lại sự tấn công từ bên ngoài vào, trên mỗi tháp lâu được thiết kế một phòng để quan sát từ xa. Trong mỗi khối tháp, một nửa dùng làm phòng quan sát còn một nửa dành cho khối cầu thang đẫn lên, điểm này tương tự như trong phác thảo của Leonardo da Vinci. Cầu thang được thiết kế theo kiểu xoắn kép, người đi lên và người đi xuống có thể không nhìn thấy nhau. Trên cùng của thang là một cửa trời lớn, nó là một phần trong tổ hợp mái gồm mái hình chóp nón, ống khói và các vòm mái là những chi tiết Theo kiểu kiến trúc cổ, nổi bật trên nền trời. Bao quanh hệ thông mái này là mộ! sân thượng (terrace), từ nơi đây những người phụ nữ quý tộc có thể quan sát, theo dõi được cuộc đi săn đang diễn ra ở khu rừng bên ngoài lâu đài. Sự kết hợp giữa những hình thức cột, những bức tưởng nhẹ nhàng sáng sủa và hệ mái phức tạp, nặng nề kiểu truyền thống phản ánh phần nào sự thích ứng của những ý tưởng kiến trúc Phục hưng Trong một công trình kiến trúc cổ điển truyền thống. Việc chối bỏ truyền thống dân tộc để đi tìm một hình thức mới cho kiến trúc cung đình Pháp là một bước ngoặt mới cho kiến trúc Pháp đương thời.

Lâu đài Chambord
  • Kiến trúc lâu đài Chateaux d’Azay-le-Rideau
Lâu đài Chateaux d’Azay-le-Rideau (1518-1524), cũng là một lâu đài kiểu Phục hưng vào loại đẹp nhất nước Pháp, với mặt bằng hình răng cưa, ba mặt soi bóng xuống nước, phía gắn với mặt nước có hình dáng tương đối giản khiết, có vẻ đẹp được tạo nên do sự tương phản giữa hình thức mái và phần thân nhà. Đây là một công trình được đánh giá là đã "hưởng thụ được Cái đẹp của tự nhiên và cũng làm đẹp thêm thiên nhiên". Khác với các lâu đài Blois hay Chambord được thiết kế cho nhà vua, Chenonceau là lâu đài được xây dựng cho những người giàu có và quyền thế. Công trình là thiết kế của kiến trúc sư Thomas Bohier, một tác phám thể hiện sự kết hợp giữa kiến trúc Phục hưng và kiến trúc cổ điển Pháp. Bắt đầu xây dựng năm 1515, Chenonceau được thiết kế với mặt bằng cân xứng, với các phòng chính đều mở cửa ra hành lang trung tâm với 1 cầu thang dẫn liên hệ giữa các tầng - đây là những đặc điểm điển hình của phong cách Phục hưng. Còn các yếu tố như phần hào nước thiết kế bao quanh lâu đài, những tháp canh ở các góc công trình, tháp chuông với những xương vòm, những trụ tưởng... cũng mang đậm dấu ấn của kiến trúc cổ điển.

Lâu đài Chateaux d’Azay-le-Rideau
Kiến trúc sư Sebastiano Serlio
Giai đoạn thứ hai của sự phát triển của kiến trúc Phục hưng trên đất Pháp bắt đầu khoáng năm 1540, với sự kiện kiến trúc sư Italia - Sebastiano Serlio (1475-1554) đến miền Bắc theo lời mời của nhà vua và sự trở về của Philipbert de rorme (1510-1570), một kiến trúc sư Pháp được đào tạo ở Rôma sau đó trở về Pháp hành nghề kiến trúc sư kiêm kỹ sư ở Paris. Hai ông đã mang những hiểu biết, kinh nghiệm của mình về những công trình Phục hưng thịnh kỳ ở Rôma, đặc biệt là những kinh nghiệm học từ Bramante; họ đã viết những tác phẩm lý luận phân tích về những quy tắc của kiến trúc Phục hưng gốc của Italia và những biến thể của phong cách này qua các công trình xây dựng ở Pháp.
Đóng góp lớn của Scbastiano Serlio trong kiến trúc là tác phẩm "Tutte l’Opere d'Architectural et Prospettia", ngày nay thường gọi là "5 cuốn sách về kiến trúc" được xuất bản từ năm 1537. Bản in đầu tiên không phải là tiếng Latinh mà gồm nhưng minh họa khắc gỗ. Cuốn đầu tiên phàn tích về các dạng hình học, cuốn thứ hai viết về cách dựng hình vẽ phối cảnh, cuốn thứ ba phân tích vc các công trình kiến trúc Rôman cổ và các công trinh Phục hưng thịnh kỳ của Bramante và Raphael. Cuốn thứ tư viết về thức cột cơ bản. Cuốn thứ năm viết về các thiết kế nhà thờ. Ngoài ra còn có nhiều cuốn khác gồm tập hợp những thiết kế của Serlio cũng được ông cho xuất bản thành sách.

Kiến trúc sư Philipbert de l’Orme
Philipbert de l’Orme cũng có nhiều đóng góp về mạt lý luận trong kiến trúc. Cuôn sách (đầu tiên của ông có lựa đề tạm dịch là Những sáng kiến mới vế tính ứng dụng và tính kinh tế công trình (Notivelics invention pour bien basier et pettr frais hay New invention for Building Well anh Economic) xuất bản năm 1561. Tác phẩm lý luận có ý nghĩa to lớn của Ởng phải kể đến là cuốn Kiến trúc (Architecture) được xuất bản năm 1567. Cuốn sách dựa trên những hình vẽ của Vitruvius và Alberti nhưng được l'Orme tiếp tục phát triển dựa trên những hiểu biết và những kinh nghiệm cá nhân về xây dựng, có thế coi như cuốn sách giáo khoa về lý luận và thực tiễn sáng tác cho tác kiến trúc sư. Trong sô rất nhiều công trình mà de l’Orme thiết kế, chỉ còn mội số ít vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Tác phẩm có ý nghĩa quan trọng nhất là thiết kế cây cầu dẫn vào lâu đài Chambord bắc qua sông Cher với thiết kế một nhịp vòm khầu độ lớn (riêng phần tháp hình trụ xây dựng ở đầu cầu không phải do ông thiết kế mà là tác phẩm của kiến trúc sư Jean Bullant thiết kế về sau này).


Qua sự hình thành và phát triển cứa nền kiến trúc Phục hưng, có thể thấy rằng kiến trúc Phục hưng đã đánh dấu một bước tiến vượt bậc về nhiều mặt của Kiến trúc này kể từ giai đoạn lịch sử sau thời kỳ Trung thế kỷ. Những thành tựu của nền kiến trúc Phục hưng bắt đầu và sau đó nở rộ ớ Italia, tiếp đến lan sang Pháp và nhiều nước khác ở Châu Âu. Cả thực tiền lần lý luận kiến trúc thời đại Phục hưng còn tiếp tục có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kiến trúc nhân loại trong nhiều thế kỷ sau này.

No comments: