Thursday, January 9, 2020

Bruyères


Hoa thạch thảo - Bruyères
Cây có nguồn từ châu Âu, châu Á. Là cây thân thảo, sống nhiều năm nhờ có thân rễ mọc bò dưới đất. Thân cao 15 - 50 cm, đơn hay phân nhánh ít ở ngọn. Lá dài, thuôn hình giáo tù, hơi có lông mịn, nguyên, các lá ở thân không có cuống. Cụm hoa hình đầu đơn độc ở ngọn các nhánh. Vòng hoa đều dài, cánh môi thuôn hẹp, thẳng màu lam tím. Các hoa ở ngoài hình lưỡi, màu lam tím, dài 1 cm.
Hoa giữa hình ống hẹp màu vàng, xếp sát nhau. Hoa thường màu tím nhạt. Quả bế có mào lông mịn màu vàng. Hoa thạch thảo trông giống như Cúc cánh mối (vì hoa mỏng nhẹ như cánh mối là một loài thuộc chi Cúc sao (Aster) thuộc về họ Cúc (Asteraceae). Aster là một chi của thực vật có hoa trong gia đình họ Cúc .Chi này có gần 600 loài được tìm thấy ở khắp các lục địa Á-Âu và Bắc Mỹ, nhưng sau khi nghiên cứu hình thái và phân tử của các chi trong những năm 1990, Loài này được trồng thích hợp và phát triển tốt ở khu vực Bắc Mỹ. Sau khi chia tách, chi này có khoảng 180 loài. Tên Aster xuất phát từ tiếng Hy Lạp cổ ἀστήρ từ (cây thúy cúc), có nghĩa là "ngôi sao", đề cập đến hình dạng của hoa đầu .Nhiều loài và một loạt các giống lai và giống được phổ biến như cây trồng trong vườn vì sự hấp dẫn và đầy màu sắc của Thạch Thảo. Aster amellus là loài điển hình của chi, cũng như của gia đình họ Cúc. Chi này hiện nay đã được phân loại lại trong chi Almutaster , Canadanthus , Doellingeria , Eucephalus , Eurybia , Ionactis , Oligoneuron , Oreostemma , Sericocarpus và Symphyotrichum , mặc dù tất cả đều được xếp trong Bộ, họ Astereae . Dù có sự thay đổi phân loại, tất cả đều vẫn còn được gọi là "asters" trong nghề làm vườn. Trong Vương quốc Anh chỉ có hai thành viên gốc của chi : Goldilocks rất hiếm, và tripolium Aster biển. Aster, Aster alpinus spp.. vierhapperi chỉ là loài bản địa của khu vực Bắc Mỹ. Thạch thảo hay mọc thành bụi, nhiều bông với cánh nhỏ xíu xoè rộng ra. Hoa thạch thảo có ba màu chính: tím, hồng, trắng. Thạch thảo có nguồn gốc từ nước Ý, ngày nay được lai tạo thêm thành loại hoa cánh kép rất đẹp. Tại châu Âu, Thạch thảo tượng trưng cho tình yêu và vẻ đẹp mềm mại, thanh tú, nữ tính. Đôi khi Thạch thảo cũng tượng trưng cho sự chính chắn vì nó thường nở vào cuối Thu, khi mà đa số các loại hoa khác đã tàn. Thạch Thảo còn có nghĩa là cỏ đá, một loài hoa nhỏ bé, mong manh nhưng lại được mọc ra từ những ngọn cỏ trên đá, bất chấp sự khắc nghiệt của thời tiết, của không gian cũng như thời gian, mới thấy sức sống của loài hoa này thật mãnh liệt. Hoa có ba màu: màu tím xanh, màu tím hồng và mầu trắng. Hoa thạch thảo có suốt bốn mùa, nhiều nhất là thạch thảo cánh đơn, nhưng thỉnh thoảng vẫn xuất hiện hoa thạch thảo cánh kép, là những bông hoa với nhiều lớp cánh chồng lên nhau, dày dặn. Tuy không rực rỡ kiêu sa cũng không có hương thơm ngát như các loài hoa khác nhưng hoa thạch thảo lại có được vẻ đẹp đồng nội tiềm ẩn bên trong, một dáng hoang sơ và trong sáng.
  • Biểu tượng : Tại Hungary, ngày 31/10/1918, được gọi là " Aster cách mạng "do người biểu tình tại Budapest đeo hoa này. 
  • Ý nghĩa : Sự lưu luyến, đợ̣i chờ.
  • Biểu trưng : tượng trưng cho sự chính chắn.

Truyền thuyết :
Ami và Edible cùng sống cạnh nhà nhau từ nhỏ và rất thân nhau. Khi trưởng thành, Ami làm bao nhiêu chàng trai say đắm, nhưng Ami chỉ đồng ý lấy ai đáp ứng được yêu cầu là đem về cho nàng một loài hoa lạ và nàng cảm thấy thích. Bao nhiêu chàng trai đã thử và đều bỏ cuộc, không ai có thể tìm ra loài hoa mà nàng thích kể cả Edible người hiểu rõ tính cách của nàng nhất. Ami và Edible thường hay cùng nhau vào rừng, Ami hái nấm còn Edible săn thú. Hôm ấy, lúc hoàng hôn khi mà giỏ nấm của Ami đã đầy và Edible cũng đã săn được một chú nai. Hai người cùng nhau đi về, nhưng hôm nay họ ko về đường cũ như mọi khi nữa mà họ đã rẽ sang đường khác. Trên đường về, họ cùng nhau trò chuyện và ngắm cảnh rừng núi. Bỗng Ami gọi Edible và chỉ cho anh bụi hoa dạ màu tim tím mọc trên vách núi cao chính là loài hoa  Ami rất thích. Edible nhìn lên bụi hoa rồi bảo Ami đứng chờ. Mặc cho Ami ngăn cản vì vách núi cao dựng đứng rất nguy hiểm có thể trượt chân mất mạng. Cuối cùng thì Edible cũng làm được, nắm được bụi hoa trong tay anh quay xuống nói với Ami nhưng tự nhiên anh lại cảm thấy chóng mặt hoa mắt, anh vội thả bụi hoa xuống cho Ami rồi tìm cách leo xuống. Đầu anh đau nhói, mắt mờ, rồi tay anh mỏi dần, chân anh mềm nhũn…Ami hét lên khi thấy Edible đang rơi xuống, thả người trong không trung…Ami ngồi đó, ngồi bên bờ vực thẳm, ngồi như người mất hồn, không nói, không cười tay cầm lấy bụi hoa tim tím ấy. Cô ngồi đó cho đến khi người trong làng vào tìm kiếm và đưa cô về. Một mình cô về được thôi còn Edible thì giờ đã không về được nữa rồi. Ami không khóc, cô không ăn uống gì cả, suốt ngày chỉ lặng lẽ ngồi trong vườn chăm sóc cho bụi hoa tim tím ấy, bụi hoa khiến cho Edible không về được nữa. Cứ như thế trong suốt một thời gian, cho đến một ngày cô đã chìm vào giấc ngủ dài, dài đến nỗi không bao giờ tỉnh lại và trong giấc ngủ đó chắc có lẻ rằng cô và Edible đã gặp được nhau và bên nhau mãi mãi. Sau khi Ami chết, loài hoa tim tím ấy được người dân trong làng chăm sóc cẩn thận và những đôi tình nhân trẻ thường tặng nhau loài hoa này để cho mãi mãi không quên nhau, sẽ luôn ở bên nhau cho dù là chết.
 
Léopoldine là con gái cưng của Victor Hugo, đại văn hào Pháp (1802-1885). Léopoldine đã chết đuối cùng chồng trong một vụ lật thuyền trên sông Seine vào trưa ngày 4/9/1843, khi cô chưa đầy 20 tuổi và đang mang thai 4 tháng. Hugo chỉ biết tin con mất khi ông vô tình đọc một tờ báo ở quán cà phê nọ. Mộ Léopoldine được chôn gần nơi bà qua đời trên bờ sông Seine đoạn chảy qua Villequier gần cảng Havre, cạnh khu bờ biển Normandi. Guillaume Apollinaire làm bài thơ L’adieu sau khi đi thăm mộ Léopoldine vào ngày 16/9/1913. Bài thơ được viết lên một phần là để tưởng nhớ Victor Hugo, một phần là tiếc thương người bạc mệnh. 

L'adieu (Thơ Guillaume Apollinaire)
J'ai cueilli ce brin de bruyère
L'automne est morte souviens-t'en
Nous ne nous verrons plus sur terre
Odeur du temps brin de bruyère
Et souviens-toi que je t'attends.
Lời vĩnh biệt (lời dịch BG)
Ta đã hái nhành lá cây thạch thảo 
Em nhớ cho, mùa thu đã chết rồi 
Chúng ta sẽ không tao phùng đựợc nữa 
Mộng trùng lai không có ở trên đời 
Hương thời gian mùi thạch thảo bốc hơi 
Và nhớ nhé ta đợi chờ em đó…
Mùa thu chết (nhạc PD)
Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo 
Em nhớ cho: Mùa Thu đã chết rồi ! 
….. 
Ôi ngát hương thời gian mùi thạch thảo 
Em nhớ cho rằng ta vẫn chờ em. 


Les bruyères regroupent plus de 800 espèces de plantes dicotylédones dans la famille des Éricacées qui inclut aussi les myrtilles, les rhododendrons...On connaît deux genres appelés communément « bruyère » : Erica et le genre monospécifique Calluna, auxquels il convient d’ajouter les genres Daboecia et Bruckenthalia. Certains auteurs incluent le genre monospécifique Bruckenthalia dans le genre Erica, d’autres incluent Erica sicula dans un genre séparé Pentapera. Les bruyères poussent surtout dans les sols siliceux. Ce sont tantôt des arbrisseaux ou des sous-arbrisseaux, tantôt de véritables arbustes. Disposées en grappes, les fleurs sont le plus souvent roses, parfois blanches (Erica arborea) ou verdâtres (Erica scoparia). Le genre Calluna possède des feuilles opposées en forme de petites écailles sessiles imbriquées sur 4 rangs. Le calice pétaloïde, qui enferme la corolle, est entouré à sa base par un calicule. Le genre Erica possède des feuilles en forme de petites aiguilles verticillées par 3 à 4. La corolle urcéolée à 4 dents et à étamines libres est entourée à sa base par un calice vert (coloré chez Erica herbacea). Erica sicula a une corolle généralement pentamère. Le genre Bruckenthalia a les étamines soudées à la corolle. Le genre Daboecia possède des petites feuilles ovales lancéolées. Les fleurs urcéolées sont disposées en grappe terminale.

Bruyères có chung với nhau trên 800 loài thực vật có hoa thuộc họ Ericaceae bao gồm các quả việt quất, đỗ quyên...Chi được biết đến thường được gọi là "Heather": Erica và chi monospecific Calluna, được bổ sung các chi Daboecia và Bruckenthalia. Một số bao gồm monospecific Bruckenthalia trong chi Erica, số khác bao gồm Erica sicula trong chi Pentapera. Hoa phát triển chủ yếu trong đất silic, đôi khi dưới dạng cây bụi hoặc bụi tiểu. Hoa được sắp xếp thành cụm, thường là màu hồng, đôi khi màu trắng (Erica arborea) hoặc màu xanh (Erica scoparia). Chi Calluna có lá đối diện mảnh không cuống nhỏ lồng trong 4 hàng. Đài hoa dạng mà bao quanh tràng hoa, được bao quanh ở gốc của một epicalyx. Chi Erica đã nhỏ mọc vòng 3 đến 4 hình kim lá. Urceolate tràng hoa 4 răng và các nhị hoa được bao quanh nó bởi một đài hoa màu xanh lá cây (màu ở Erica herbacea). Chi Erica sicula có một tràng hoa thường pentamer. Chi Bruckenthalia có nhị (étamines) hợp nhất với tràng hoa (corolle). Chi Daboecia có lá hình bầu dục nhỏ hình mũi mác. Những bông hoa urceolate được sắp xếp theo một cụm ở đầu cuối.
  • Thạch thảo thuộc họ Asteraceae;
  • Bruyères thuộc họ Ericaceae.
 

Asteraceae : Họ Cúc (danh pháp khoa học: Asteraceae hay Compositae), còn gọi là họ Hướng dương, họ Cúc tây, là một họ thực vật có hoa hai lá mầm. Tên gọi khoa học của họ này có từ chi Aster (cúc tây) và có từ nguyên từ gốc tiếng Hy Lạp mang nghĩa ngôi sao-hình dáng của bông hoa trong các loài của nó, được điển hình hóa thành tên gọi phổ biến chung là hoa cúc. Họ Asteraceae là họ lớn thứ nhất hoặc thứ hai trong ngành Magnoliophyta, chỉ có họ Phong lan (Orchidaceae) là có thể có sự đa dạng lớn hơn, với khoảng 25.000 loài đã được miêu tả. Họ này theo các định nghĩa khác nhau chứa khoảng 900-1.650 chi và từ 13.000-24.000 loài. Theo dữ liệu của Vườn thực vật hoàng gia Kew mà APG II trích dẫn, họ này chứa 1.620 chi và 23.600 loài và như thế thì nó lại là họ đa dạng nhất, do cũng theo dữ liệu của Kew thì họ Lan chỉ có khoảng gần 22.000 loài. Các chi lớn nhất là Senecio (1.500 loài), Vernonia (1.000 loài), Cousinia (600 loài), Centaurea (600 loài). Định nghĩa các chi thường có vấn đề và một số chi thường xuyên bị chia nhỏ thành các nhóm nhỏ hơn. Họ Asteraceae phân bố rộng khắp thế giới, nhưng phổ biến nhất tại các khu vực ôn đới và miền núi nhiệt đới. Không có đặc điểm nào trong số này, được trích ra riêng rẽ, có thể coi là được chia sẻ bởi hai hay nhiều nhóm thuộc cùng nhánh (synapomorphy).
  • Cụm hoa: Cụm hoa dạng đầu
  • Bao phấn hữu tính, tức là với các nhị hoa kết hợp lại với nhau tại các gờ của chúng bởi các bao phấn, tạo thành ống
  • Bầu nhụy với sự phân bổ cơ bản của các noãn hoa
  • Các noãn hoa trên một bầu nhụy
  • Mào lông (chùm lông trên quả)
  • Quả là loại quả bế (tạo thành từ một lá noãn và không nẻ ra khi chín).
  • Các sesquiterpen có mặt trong tinh dầu, nhưng không có các iriđôit.

Đặc trưng phổ biến và chung nhất của các loài này là trong cách nói thông thường gọi là "hoa", là cụm hoa hay cụm hoa hình đầu (đúng ra là hoa hình giỏ (lam trạng hoa tự); là một cụm dày dặc của nhiều hoa nhỏ, thông thường gọi là các chiếc hoa (nghĩa là "các hoa nhỏ"). Các loài trong họ Cúc thông thường có một hoặc cả hai loại hoa con. Vòng ngoài của cụm hoa hình đầu tương tự như ở hoa hướng dương được cấu thành từ các hoa con có dạng cánh hoa dài, được gọi là lưỡi bẹ; chúng là hoa tia. Phần bên trong của đầu cụm hoa (hay đĩa) được hợp thành từ các hoa nhỏ với các cánh hoa hình ống; chúng là các hoa đĩa hay hoa phễu hoặc hoa ống. Thành phần của các hoa họ Cúc dao động từ hoa toàn tia (tương tự như ở các loài bồ công anh, chi Taraxacum) tới hoa toàn đĩa (tương tự như ở các loài cỏ dứa). Bản chất hỗn hợp của các cụm hoa của các loài thực vật này đã làm cho các nhà phân loại học thời kỳ đầu gọi họ này là họ Compositae (từ chữ composit - nghĩa là kép, hợp, phức). Mặc dù các quy tắc quản lý cách đặt tên gọi cho các họ thực vật thông báo rằng tên gọi phải xuất phát từ chi điển hình, trong trường hợp này là Aster, và vì thế sẽ là Asteraceae. Tuy nhiên, tên gọi đã thịnh hành trước đây Compositae vẫn được chấp nhận như là tên gọi khác cho họ này (ICBN Điều. 18.6). 


Các chi trong họ này được chia thành 13 tông. Chỉ có một trong số 13 tông này là Lactuceae, có thể là có đủ khác biệt để có thể coi là một phân họ (phân họ Cichorioideae); các tông còn lại, phần lớn là chồng ghép lẫn nhau, được đưa vào phân họ Asteroideae (Wagner, Herbst và Sohmer, 1990). Họ Cúc được công nhận rộng khắp và đặt trong bộ Asterales. Theo truyền thống người ta công nhận hai phân họ là Asteroideae (hay 'Tubuliflorae') và Cichorioideae (hay 'Liguliflorae'). Phân họ thứ hai này là cận ngành và được chia ra thành nhiều nhóm nhỏ trong phần lớn các hệ thống phân loại mới. Cây phát sinh loài tại đây dựa theo Panero & Funk (2002), cũng được thể hiện trong hệ thống APG. Các loài thực vật có giá trị thương mại quan trọng trong họ này bao gồm các loại cây cho rau như rau diếp, rau diếp xoăn, atisô, hướng dương và atisô Jerusalem. Guayule (Parthenium argentatum) là nguồn latex ít gây dị ứng. Nhiều thành viên trong họ Asteracae là các nguồn sản xuất mật hoa dồi dào và có ích cho việc lượng giá các quần thể động vật thụ phấn trong thời kỳ nở hoa của chúng. Centaurea (xa cúc), Helianthus annuus (hướng dương trồng), và một số loài Solidago (goldenrod) là các nguồn cung cấp mật và phấn hoa chủ yếu cho ong mật. Solidago sản xuất ra phấn hoa tương đối giàu protein, điều này giúp cho ong mật sống tốt qua được mùa đông. Nhiều loài trong họ này còn được trồng làm cây cảnh để lấy hoa, ví dụ các loài thuộc chi Chrysanthemum. Một số loài cây còn được sử dụng làm vị thuốc trong y học cổ truyền như bồ công anh, cúc hoa (Chrysanthemum indicum).


Ericaceae : Họ Thạch nam hay họ Đỗ quyên (danh pháp khoa học: Ericaceae) là một họ trong thực vật có hoa bao gồm khoảng 126-135 chi và 3.995 loài, chủ yếu là các loài cây ưa thích môi trường đất chua. Họ Ericaceae bao gồm một số loài cây sinh sống chủ yếu trong các khu vực có khí hậu ôn đới như nam việt quất, việt quất, thạch nam, âu thạch nam, đỗ quyên, khô v.v. Nghiên cứu di truyền học gần đây do Angiosperm Phylogeny Group tiến hành đã cho kết quả là các họ trước đây được công nhận là Empetraceae, Epacridaceae, Monotropaceae, Prionotaceae và Pyrolaceae nên được gộp vào họ Ericaceae. Phần lớn họ Ericaceae, ngoại trừ các loài thuộc các họ cũ Monotropaceae, Prionotaceae và Pyrolaceae, tạo thành quan hệ cộng sinh nấm thạch nam (ericoid mycorrhiza). Quan hệ cộng sinh này được cho là cốt yếu đối với thành công của các thành viên thuộc họ này trong các môi trường đất đai sinh sống chua trên khắp thế giới (Cairney và Meharg, 2003). Erica là một chi gồm khoảng 860 loài thực vật có hoa trong họ Thạch nam. Tên tiếng Anh phổ biến là "heath" và "heather", tên gọi này cũng liên quan rất gần với sự xuất hiện của chúng và loại đất mà chúng thích nghi mạnh. Chi Calluna trước đây cũng bao gồm trong Erica – nhưng có điểm khác biệt là lá của chúng nhỏ hơn (dài nhỏ hơn 2–3 mm), và đài hoa được chia thành những cánh hoa riêng biệt. Erica đôi khi được xem là "heather đông (hay xuân) " để phân biệt với Calluna (heather mùa hè (hay thu)).


Bộ Thạch nam hay bộ Đỗ quyên (danh pháp khoa học: Ericales) là một bộ thực vật hai lá mầm lớn và đa dạng. Trong một số sách giáo khoa về thực vật học gọi là họ đỗ quyên là lấy theo tên của chi đỗ quyên (Rhododendron) thuộc họ Ericaceae, nhưng tại Wikipedia lấy theo tên chi thạch nam (Erica) cũng thuộc họ Ericaceae. Bộ này chứa nhiều loại cây từ cây thân gỗ, cây bụi, dây leo và cây thân thảo. Cùng với các loài thực vật tự dưỡng thì bộ Ericales còn có cả các loài thực vật thiếu diệp lục sống cộng sinh cùng nấm (ví dụ Sarcodes sanguinea) và thực vật ăn thịt (ví dụ chi Sarracenia). Nhiều loài có 5 cánh hoa, thường mọc cùng nhau. Nấm rễ là một tính chất đặc biệt, thường gắn liền với bộ Ericales. Thực vậy, sự cộng sinh với nấm ở rễ là rất phổ biến trong các đại diện của bộ này, và thậm chí người ta còn tìm thấy có 3 loại nấm chỉ có thể thấy ở bộ Ericales (gọi là ericoid, arbutoid và monotropoid mycorrhiza). Ngoài ra, vài họ trong bộ này còn đáng chú ý vì khả năng tích lũy nhôm rất cao của chúng. Ericales là một bộ phổ biến rộng khắp. Các khu vực phân bổ của các họ dao động rất lớn - trong khi một số họ chỉ sinh trưởng ở vùng nhiệt đới thì một số họ khác lại tồn tại chủ yếu ở vùng cận bắc cực hay khu vực ôn đới. Toàn bộ bộ này chứa trên 8.000 loài, trong đó riêng họ Thạch nam (Ericaceae) chiếm từ 2.000-4.000 loài. Có lẽ loài cây quan trọng nhất trong bộ này là cây chè (Camellia sinensis) từ họ Chè (Theaceae). Bộ này cũng chứa một số loại cây cho quả ăn được, chẳng hạn cây kivi (Actinidia deliciosa), hồng (chi Diospyros) và một số loài cây ăn quả nhiệt đới khác. Nhiều loài trong bộ này cũng được trồng làm cây cảnh vì có hoa sặc sỡ.


Nghiên cứu di truyền học gần đây do Angiosperm Phylogeny Group tiến hành đã cho kết quả là các họ trước đây được công nhận là Empetraceae, Epacridaceae, Monotropaceae, Prionotaceae và Pyrolaceae nên được gộp vào họ Ericaceae. Phần lớn họ Ericaceae, ngoại trừ các loài thuộc các họ cũ Monotropaceae, Prionotaceae và Pyrolaceae, tạo thành quan hệ cộng sinh nấm thạch nam (ericoid mycorrhiza). Quan hệ cộng sinh này được cho là cốt yếu đối với thành công của các thành viên thuộc họ này trong các môi trường đất đai sinh sống chua trên khắp thế giới (Cairney và Meharg, 2003).
Họ này có thể chia ra làm 8 phân họ như sau:
  • Enkianthoideae: 1 chi, 16 loài. Đông Nam Á, Trung Quốc, Nhật Bản.
  • Monotropoideae: 15 chi, 50 loài. Bắc bán cầu, chủ yếu là ôn đới.
  • Arbutoideae: 1-6 chi, khoảng 80 loài, riêng chi Arctostaphylos khoảng 60 loài. Ôn đới ấm, đặc biệt tại tây nam Bắc Mỹ và khu vực Địa Trung Hải.
  • Cassiopoideae: 1 chi (Calluna), 12 loài. Cận vòng Bắc cực.
  • Ericoideae: 19 chi, 1.790 loài. Các chi đa dạng nhất: Rhododendron (khoảng 850 loài khi gộp cả Azalea, Ledum, Menziesia, Tsusiophyllum), Erica (trên 765 loài, với trên 600 loài có mặt tại khu vực South Cape: bao gồm cả Philippia v.v). Đa dạng nhất tại miền nam châu Phi và Malesia tới Đông Nam Á, nói chung từ Bắc bán cầu tới miền nam Nam Mỹ, bao gồm cả Tristan da Cuhna và quần đảo Falkland.
  • Harrimanelloideae: 1 chi, 2 loài. Tại khu vực cận vòng Bắc cực.
  • Styphelioideae: 35 chi, 545 loài. Đa dạng nhất là Leucopogon (230 loài, nhưng có lẽ cần chia tách), Dracophyllum (50 loài), Epacris (45 loài). Australasia, Chile (Lebetanthus).
  • Vaccinioideae: Khoảng 50 chi với 1.580 loài. Các chi đa dạng nhất có bầu nhụy hạ như Vaccinium (450 loài), nhưng tại Đông Nam Á thì chi Agapetes (khoảng 400 loài, bao gồm nhiều loài phân loại trong chi Vaccinium), Dimorphanthera (khoảng 85 loài) có quan hệ chị-em với Paphia (18 loài), từng là một phần của chi Agapetes, nhưng không có mối quan hệ trực tiếp với nó, trong khi tại vùng nhiệt đới châu Mỹ thì đa dạng nhất là Cavendishia (155 loài), Psammisia (60 loài), Thibaudia (60 loài), Macleania (55 loài) và Gaylussacia (50 loài). Phần còn lại: Gaultheria (235 loài, bao gồm cả Pernettya, Diplycosia, Tepuianthus). Bắc bán cầu, Malesia và vùng núi Trung và Nam Mỹ, Australia (Queensland), một ít tại châu Phi.
 

Hoa bruyère trong thơ Guillaume Appolinaire như đã được BG và PD dịch là hoa thạch thảo cũng không cần bàn cải chi nhiều, có điều là loại hoa này không giống như thạch thảo ở VN. Tự điển Pháp - Việt giải thích rằnghoa bruyère là một loài hoa chuông dại mọc trên cát sỏi. Loài hoa này gốc ở Châu Âu, cũng nhờ mấy nhà thơ, nhà văn nên nó mới thành hoa kiểng, chứ trước kia ở thế kỷ 17 -19 nó chỉ là loài hoa dại. Ở miền bắc nước Anh cây hoa thạch thảo này mọc đầy đồng. Dân Scotland lấy thân của nó bện lại làm chổi, hoặc lợp mái, ken vách và nhiều công dụng thực tế khác hơn là làm kiểng. Nhưng ở Việt Nam, hoa Thạch thảo chính là loài Cúc Sao, Cúc Cánh mối, Cúc Nhật. 


Hoa thạch thảo ở Việt Nam
Hoa thạch thảo (Aster) thuộc họ Cúc (Asteraceae). Tại Việt Nam, người miền Nam hay gọi là Cúc Sao, Cúc Cánh mối, người Bắc gọi là Thạch thảo. Thạch thảo hay mọc thành bụi, nhiều bông với cánh đơn xoè rộng ra. Hoa Thạch thảo có ba màu chính : tím, hồng, trắng. Thạch thảo ngày nay được lai tạo thêm thành loại hoa cánh kép. Hoa thạch thảo cánh mối cũng như các loại hoa cúc thường nở vào mùa Thu, khi mà đa số các loại hoa khác đã tàn. Như vậy, hoa Thạch thảo (hay cúc Sao, cúc Nhật, cúc Cánh mối) là 1 tên Việt của loài Aster  thuộc họ Cúc (Asteraceae), tên Anh ngữ là Aster và Pháp là Astère. 


Hoa thạch thảo ở Âu Châu
Hoa thạch thảo Âu châu là thuộc cây Bruyère (tiếng Pháp) hay Heather (tiếng Anh) còn gọi là Common Ling hay Briar. Từ điển Sinh học Anh Việt và Việt Anh, nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật dịch Heather là cây Thạch nam. Trung hoa gọi là Hồng phương bách 紅方柏 hay Thạch nam 石楠. Từ điển phổ thông Pháp Việt gọi là cây Thạch thảo. Hoa tượng trưng cho sự mong mỏi, che chở (màu trắng); sự may mắn (màu hồng); cô đơn, hâm mộ, thán phục (màu xanh). Đây là cành thạch thảo mà Guillaume Appolinaire đặt lên ngôi mộ của Léopoldine vào một ngày cuối thu (16/9) năm nào, tiếc thương cho người bạc mệnh.



No comments: