Sunday, January 17, 2016

Alhambra


Vương quốc Granada thuộc vương triều Nasrid là thành trì sau cùng của Al-Andalus, sự thống trị của Hồi giáo trên bán đảo Iberia hình thành cạnh phía Tây của thế giới Hồi giáo thời Trung cổ. Tiếp theo trận đánh quyết định Las Navas de Tolosa (1212), các thành phố quan trọng của Al-Andalus đều bị tín đồ Cơ đốc xâm chiếm: Cordoba, kinh thành trước đây của vua Hồi, thất thủ vào năm 1236 và Seville năm 1248. Chỉ còn lại vương quốc Granada bé xíu là tự trị khi người sáng lập vương triều Nasrid, Muhammad I (1232-72), tự xưng mình là một chư hầu của Vua xứ Castile. Vương quốc Granada tồn tại đến năm 1492, lúc ấy mới bị các nhà vua Cơ đốc xâm chiếm, Ferdinand xứ Aragon và Isabella xứ Castile. Trong cùng năm người ta phát hiện ra châu Mỹ, đánh dấu sự chấm dứt thời kỳ Reconquista của Tây Ban Nha và thời kỳ xâm hiếm Tân thế giới bắt đầu.
Thành tựu lớn nhất của các vua Hồi vương triều Nasrid là cung điện Alhambra, nhằm mục đích quảng bá nền văn hó, sở thích và chấn chỉnh nền văn minh Hồi giáo. Sự khẳng định đặc điểm này liên kết mật thiết với nhận thức sự yếu kém của riêng mình của Granada và có lẽ vì lý do này, cung điện Alhambra bị bao trùm một tâm trạng luyến tiếc quá khứ, không thưởng và thi vị. Thực ra, một trong những đặc điểm nổi bật nhất là dùng thơ để trang trí phòng ốc và không gian, một số bài thơ do thi sỹ cung đình nổi tiếng sáng tác như Ibn al-Yayyab, Ibn al-Jatib và Ibn Zamrak. Chủ đề hồi tưởng quá khứ cũng có thể nhìn thấy trong kết cấu kiến trúc của cung điện. Ngoài sự ám chỉ đặc biệt về đạo Hồi, cung điện còn mang nhiều hình dạng đặc trưng của kiến trúc Hy Lạp, La Mã cổ đại. Vì thế cung điện Alhambra không chỉ có thơ mà còn chứa đựng kiến thức uyên bác nhất định về Hy-La cổ điển. Tên cung điện lấy từ al-Qalat al Hamra, có nghĩa là "lâu đài đỏ", vì màu gạch và đất lấy từ pháo đài trước kia. Khu phức hợp được bao quanh bằng một tường bao bảo vệ và cách biệt cung điện với thành phố. Những khu cổ nhất của pháo đài có niên đại từ thế kỷ XI và XII, nhưng chính Muhammad I mới là người bắt đầu khởi công xây dựng một cung điện làm nơi ở tại địa điểm này.
Quần thể cung điện Alhambra, là một pháo đài nằm ở Granada. Alhambra là một trong những quần thể cung điện và vườn tược nổi tiếng thế giới. Những người Moor - người lai Ả Rập và Berber đến từ Tây Bắc châu Phi - thống trị Tây Ban Nha thời trung cổ đã xây dựng Alhambra trên đỉnh một quả đồi nhìn xuống thành phố. Nằm trong khuôn viên rộng 142.000m2, được bao bọc bởi những khu rừng, Alhambra là một trong những lựa chọn hàng đầu của du khách khi đến Granada. Và công trình này đã lọt vào top 21 những công trình được chọn để bầu bảy kỳ quan thế giới mới vào năm 2008. Alhambra có nhiều khu vườn xinh tươi, những dòng suối nhỏ, một khu cung điện và một nhà thờ đạo Hồi, được bảo vệ bởi 13 tháp canh đồ sộ. Phần cổ nhất của Alhambra là pháo đài Alcazaba nằm tách biệt về phía Bắc, ở vị trí cao nhất, chủ yếu dùng cho mục đích quân sự. Alcazaba gồm những bức tường đồ sộ, các thành lũy và tháp canh. Tháp canh Torre de la Vela, cao 25m, từng treo cờ của hai vị vua là Ferdinand và Isabella trị vì Granada vào thế kỷ XV. Cung điện được thiết kế hài hòa giữa kiến trúc Hồi giáo, Hy Lạp và La Mã cổ đại.
Vật liệu xây dựng chủ yếu là gạch và bê tông, ít sử dụng đá chạm; đá hoa cương chỉ được dùng để lót các lối đi và làm cột, mũ cột. Vách và trần nhà chủ yếu được ốp gỗ và trát vữa xù xì. Loại ngói gốm đa sắc được sử dụng để trang trí. Nét độc đáo của Alhambra là dùng các bài thơ ca ngợi công đức của các vị vua để trang trí phòng ốc. Đá hoa cương được sử dụng rất hạn chế, hầu như chỉ dùng để lót đường đi và làm cột. Vách tường, trần, sàn nhà được làm bằng gỗ, gốm sứ và vữa trát không xoa láng. Nhiều khoảng không gian nội ngoại thất được che kín bằng một loại ngói gốm đặc biệt có khả năng phản chiếu và đổi màu theo ánh sáng. Tường của các gian phòng hầu như vẫn còn nguyên vẹn với những họa tiết tinh xảo và không hề trùng lặp giữa phòng này với phòng khác. Không biết có phải do tham vọng tạo dựng một bản sao thiên đường dưới hạ giới mà những chủ nhân xưa của Alhambra đã để lại cho chúng ta một cung điện mà mỗi góc nhỏ đều mang tính thẩm mỹ rất cao. Điểm ấn tượng nhất của cung điện Alhambra là công trình trát vữa không xoa láng, trang trí bằng các motif thực vật và những câu đề khắc. Các nghệ nhân đã khéo léo chạm khắc trên tường, cột và trần nhà những chữ khắc cổ rất tinh.
Vào thế kỷ 13, Alhambra là nơi thu hút sự quan tâm, bởi nó mang đặc điểm của công trình quân sự. Vì thiếu nguồn tư liệu chi tiết nên việc xác định niên đại của nhiều bộ phận khác nhau trong cung điện Alhambra chỉ có thể khẳng định bằng cách vận dụng giả thuyết và xét đoán bề ngoài. Sân cung điện bao quanh bởi một mái cổng có tổng cộng 124 cột hoa cương, tập trung quanh Vòi phun Sư tử nổi tiếng Bên trong cung điện, ngói gốm đa sắc lấp kín nhiều khoảng không gian nội ngoại thất. Các bức tường hầu như còn nguyên với những họa tiết tinh xảo và không lặp lại khi bước sang căn phòng khác. Mỗi góc nhỏ của cung điện đều mang tính thẩm mỹ rất lớn. Cung điện vua Nasrid là nơi nổi tiếng nhất của Alhambra với 3 phần chính: Mexuar, nơi nhà vua họp và đưa ra các quyết định hành chính, kinh tế lại có kiến trúc khá giản dị so với những căn phòng khác.
Phần thứ hai của cung điện hoàng gia, Serello được xây dựng vào khoảng giữa thế kỷ XIV với mục đích tiếp đón sứ thần và khách quý. Là nơi diễn ra các nghi lễ ngoại giao nên khu vực này được trang trí rất công phu với nhiều căn phòng có tường chạm khắc họa tiết dày đặc và nền nhà là gạch sứ có hình vẽ vô cùng độc đáo. Phần cuối cùng là Harem là khu phòng ở với một phòng tắm lớn. Nhà của vua cũng ở khu này. Trần của phòng Hai chị em trông giống như những tổ ong xếp ken chặt nhau. Sân Alberca hay “Sân mía” “sở hữu” một hồ nước lớn rất hài hoà với kiến trúc các toà nhà xung quanh. Chiếc hồ hình chữ nhật với gần 35 mét chiều dài và 7 mét chiều rộng chiếm phần lớn diện tích sân khiến Alberca càng trở nên rộng lớn hơn. Hồ nước là điểm nhấn duy nhất khiến Mexuar sống động hơn bởi mỗi lần nhìn xuống hồ, ta lại thấy tòa nhà thật lớn in bóng cùng trời cao. Và cho dù đang ở ngay trước mặt nhưng khi nhìn qua hồ nước ta có thể cảm nhận Mexuar hùng vĩ và uy nghiêm hơn rất nhiều.
Được xây vào nửa sau thế kỷ XIV, Cung sư tử là một công trình độc lập có lối đi tới tất cả các cung điện khác của Alhambra. Sân Sư tử cũng là một địa điểm không thể bỏ qua khi tới thăm Alhambra. Đó là trung tâm, là điển hình kiến trúc Hồi giáo Tây Ban Nha. Các toà nhà trong cung được bố trí bao quanh khoảng sân rộng lớn với rừng cột được sắp đặt rất công phu, tạo nên một khoảng không râm mát bao quanh hồ. Trong sân hiện có khoảng 12 bức tượng sư tử mang phong cách khác nhau. Các kỹ sư Hồi giáo đã thật tài tình khi thiết kế hệ thống nước trong sân sao cho vẫn đảm bảo lưu lượng nước chảy vào đài phun nước được đặt ngay chính trung tâm mà vẫn đủ để tạo thành rãnh tưới vườn hoa xung quanh. Cho đến tận sau này, các nhà khoa học đã phải tháo dỡ đài nước để tìm hiểu cơ chế hoạt động của chúng.
Chính những người theo trường phái lãng mạn, giới họa sĩ Anh nói riêng, là người đầu tiên phát hiện ra cung điện và làm cho thế giới phương Tây chú ý đến Alhambra trong thế kỷ 19. Họ đã lý tưởng hóa, biến cung điện thành một nơi huyền thoại, thấm đẫm tính ngoại lại và thú vui nhục dục. Hình ảnh này được phản ánh trong nghệ thuật của David Robert John, Frederick Lewis và Washington Irving trong tác phẩm"Conquest of Granada" (1829) và "Tales of the Alhambra” (1832). Maria del Mar Villafranca - Quản lý quần thể cung điện Alhambra cho biết: "Kỳ quan của Alhambra không nằm ở tính chất bất hủ, vẻ hùng vĩ hay sự phong phú, cũng không phải cung điện có bất kỳ sự hợp nhất phong cách nào. Thay vào đó, nét quyến rũ của Alhambra chủ yếu là sự trang trí phi thường mà thiên nhiên cũng như kiến trúc cùng mang đến". Quần thể cung điện này được UNESCO công nhận là Di sản Thế giới từ năm 1994. Đây là một thành tựu kiến trúc lớn nhất ghi dấu văn minh Hồi giáo tại đất nước Tây Ban Nha. Ngoài những hoa văn, họa tiết đặc trưng của đạo Hồi, cung điện còn mang nhiều hình dạng đặc trưng của kiến trúc Hy Lạp, La Mã cổ đại. Vì thế, cung điện Alhambra còn chứa đựng kiến thức uyên bác về Hy Lạp cổ điển.











No comments: