Silence night (1818)
Vào ngày 11-12-1792, tại Salzburg, Áo. Cậu bé Joseph Mohr sinh ra trong gia đình một thợ đan nghèo, cha bỏ đi. Đến ở với bà ngoại nghèo khổ túng thiếu, mỗi khi đói rét, Joseph thường lang thang đâu đó để quên đi. Chính những lần cuốc bộ đó đã làm thay đổi cuộc đời cậu và cả cách thức chào đón Noel trên thế giới. Một lần, Joseph ghé vào một nhà thờ trong làng và gặp ông Johann Hiernle, người chỉ huy dàn hợp xướng. Joseph bắt đầu tham gia sinh hoạt cộng đồng. Nhận thấy tài năng thơ ca, âm nhạc của Joseph, khi cậu đủ tuổi, Hiernle cho cậu vào học tại một trường ngữ văn nổi tiếng tại Kremsmnster. Rồi Joseph tốt nghiệp trường dòng, được phong linh mục khi vừa 23 tuổi.
Năm 1817, cha Joseph Mohr, lúc đó mới 25 tuổi, được bổ nhiệm làm linh mục phụ tá tại nhà thờ Thánh Nicholas ở miền Oberndorf nước Áo. Lúc thiếu thời Mohr đã say mê âm nhạc, có lúc sáng tác thơ và đặt lời cho những bài ca trong các nghi lễ đặc biệt tại giáo đường. Khi trở thành linh mục, cha Mohr làm việc không biết mệt mỏi trong công tác từ thiện, phục vụ thanh thiếu niên con các gia đình nghèo khó trong vùng. Năm 1816, lúc phục vụ tại một thánh đường tại Mariapfarr, cha Mohr đã viết một bài thơ mừng Chúa Giáng Sinh. Bài thơ gồm 6 khổ, cha cảm hứng sáng tác trên đường đi bộ từ nhà ông nội đến nhà thờ. Tuy có cho vài người bạn bè xem bài thơ, nhưng cha chưa bao giờ nghĩ đến chuyện phổ biến hoặc có ý định đem ra phổ nhạc. Khi được đổi đến xứ đạo Oberndorf, cha mang theo bài thơ cùng với số vật dụng ít ỏi của cha.
Một ngày mùa đông năm 1818, cha Mohr đang cố hoàn thành mọi việc sửa soạn cho thánh lễ Giáng sinh, một nghi lễ mà cha đã hoạch định trước cả tháng. Mọi thứ đều đã xong xuôi, từ bài hát cho đến bài giảng. Nhưng lúc cha dọn dẹp thánh đường mới phát hiện một trở ngại tưởng không thể khắc phục được: đó là chiếc phong cầm của nhà thờ bị hư. Nóng lòng, cha lui cui hàng giờ đánh vật với hàng phím, với bàn đạp của chiếc đàn. Bất chấp mọi khó nhọc của cha, chiếc đàn vẫn nằm ỳ ra không lên tiếng, im lặng chẳng khác cái lặng lẽ của một đêm đông giá lạnh. Nhận thấy không thể làm gì hơn, vị linh mục ngừng lại và cầu nguyện. Chợt nhớ lại lại bài thơ "Still Nacht ! Heilige Nacht !" đã hai năm sau ngày sáng tác. Bỏ bài thơ vào túi áo cha vội vã ra khỏi nhà. Chỉ còn mấy giờ nữa là thánh lễ nửa đêm bắt đầu, vị linh mục băng qua những đường phố đầy tuyết phủ.
Cũng vào chiều hôm đó, Franz Gruber, người giáo viên làng 31 tuổi, đang co ro trong căn phòng nhỏ bên cạnh trường học. Mặc dù đã theo học phong cầm với giáo sư nổi tiếng Georg Hardobler, Gruber cũng chỉ chơi đàn cho nhà thờ St. Nicholas nhỏ bé. Cha Morh bước vào, hối hả kể cho kéo ông giáo làng nghe nỗi khó khăn của mình. Sau khi bảo Gruber rằng chiếc đàn không thể sửa được, cha liền đem bài thơ ra và nói : Franz, anh xem có thể viết nhạc cho bài thơ này để ca đoàn hát được không? Không có phong cầm thì ta chơi guitar vậy. Rồi vị linh mục đưa mắt nhìn đồng hồ trên bàn, nói thêm: “Không còn nhiều giờ nữa đâu”. Đọc kỹ bài thơ, Gruber gật đầu, chấp nhận thử thách. Mấy giờ sau, hai người gặp nhau tại nhà thờ. Gruber đưa cho vị linh mục xem bản nhạc của mình. Linh mục dùng đàn guitar gảy lên những nốt nhạc rồi vội vã chuyển cho ca đoàn. Không có nhiều thời giờ, cha Mohr và Gruber chỉ dạy được cho ca đoàn phần hòa âm bốn giọng của mỗi hai câu thơ cuối.
Trong thánh lễ nửa đêm, cha Mohr và Gruber đứng trước bàn thờ giới thiệu bản nhạc nhỏ bé và giản dị của hai người. Thế là bản Đêm an bình (Still nacht) lần đầu tiên được hát lên với đàn guita vào Lễ Nữa Đêm Giáng Sinh tại Nhà Thờ Thánh Nicholas ở một làng quê nhỏ bé miền Oberndorf. Cảm động hơn nữa, sau khi rước lễ, chính cha Mohr và Franz Gruber đã hát những phiên khúc mà ca đoàn chưa kịp tập. Cho dù ban đầu cử tọa kinh ngạc với sự xuất hiện của cây guitar trong một bản Thánh ca tôn nghiêm như thế, nhưng chẳng mấy chốc, “Silent Night” đã vượt ra khỏi địa giới Salzburg, trở thành khúc nhạc Giáng sinh được ưa chuộng trên khắp Châu Âu và toàn cầu. Mấy tuần lễ sau ngày tết dương lịch, anh chàng Karl Mauracher chuyên chế tạo và sửa đàn phong cầm ngụ tại vùng thung lũng Ziller, đến nhà thờ St. Nicholas để sửa đàn cho cha Mohr. Trong lúc anh lui cui sửa chữa, cha Mohr đem câu chuyện cha đã dùng đàn guitar để chơi một bản nhạc phổ bài thơ cũ để cứu vãn đêm lễ Giáng Sinh vừa qua. Cha hát cho anh chàng này nghe bản nhạc đó, thích thú vì bản nhạc, anh chàng Karl lấy giấy ghi bài ca và học thuộc lòng các nốt nhạc. Những năm sau, theo với nghề nghiệp phải đi đây đi đó, anh giới thiệu bản nhạc này với nhiều đô thị và thánh đường.
Vào thế kỷ 19, ở nước Áo và nước Đức có nhiều nhạc sĩ du ca. Mỗi nhóm du ca gồm các thành viên trong cùng một gia đình thường không chỉ hành nghề ca hát mà còn làm những việc chuyên biệt khác để có tiền chi dụng trong lúc di chuyển từ nơi này sang nơi khác. Năm 1832, nhóm du ca thuộc gia đình Stasser xuất hiện tại một cộng đồng nhỏ nơi anh chàng Mauracher đang ráp đặt một chiếc phong cầm. Trong thời gian ở đó, nhóm du ca này học được bài "Still Nacht!." Mấy tuần sau, tại một buổi trình diễn tại Leipzig, nhóm du ca này trình bày bản "Still Natch!" trước một đám thính giả rất đông đến coi hội chợ. Nhận thấy bản nhạc này mang một sứ điệp tinh thần sâu xa, hoàng đế nước Áo William IV truyền cho ca đoàn nhà thờ chính toà của ông ca bản nhạc này trong nghi lễ Giáng Sinh hàng năm. Một phần cũng vì lòng ưu ái đó của nhà vua mà nhạc bản này lan tràn ra khắp miền đông Âu rồi tràn qua Anh quốc. Tháng 12 năm 1839 một nhóm du ca khác thuộc gia đình Rainer tới New York. Một phần chương trình của họ là trình bày bản "Still Natch!" bằng Anh ngữ (Silent Night!) trước một cử tọa rất đông đảo tại thánh đường Chúa Ba Ngôi. Bản nhạc trở thành phổ thông và được rất nhiều ca đoàn hát trong các nhà thờ. Vào thời kỳ nội chiến ở Mỹ, bản nhạc "Silent Night" trở thành bài ca Giáng Sinh phổ biến nhất. Trong trận chiến giữa hai miền Nam Bắc, không hiếm thấy cảnh ngưng chiến bốn ngày trong dịp lễ Giáng Sinh, binh sĩ giữa hai miền thù nghịch cùng buông súng, tụ họp lại để dự lễ, đọc Thánh kinh, chia sẻ quà cáp, và cùng ca bài "Silent Night".
Bản nhạc Still nacht, với lời thơ sâu lắng và nét nhạc du dương, đã được phổ biến nhanh chóng. Vào cuối thế kỷ 19, bản “Silent night” đã được phiện dịch ra khoảng hơn 20 ngôn ngữ khác nhau và là bản nhạc không thể thiếu trong các lễ hội Giáng Sinh trên khắp thế giới. Vào năm 1905, bản nhạc Silent night đã được thu âm lần đầu tiên do ban nhạc Haydn Quartet. Từ năm 1960 đến nay, Silent night được công nhận là bản nhạc được ghi âm nhiều nhất trong lịch sử âm nhạc. Không ít lần, trong các cuộc chiến tranh được đình chiến dịp Lễ Giáng Sinh, các binh sĩ giữa hai chiến tuyến đối nghịch nhau, buông súng và cùng ca bài Silent night. Mặc dầu chỉ là một bản nhạc giản dị, nhưng mỗi khi được cất lên, nó vẫn luôn mượt mà như lần đầu tiên được hát lên trong ngôi thánh đường nhỏ bé nơi nước Áo xa xôi. Bài hát càng được phổ biến thì nguồn gốc càng bị phân hóa. Có nhiều lúc các nhà xuất bản gán cho tác giả bản nhạc này là một trong các nhạc sĩ đại tài như Bach, Beethoven hoặc Handel. Chỉ mãi tới khi Franz Gruber gửi tới các báo và các nhà xuất bản bản sao tờ phổ nhạc của mình thì nguồn gốc đích thực mới được công nhận. Mặc dù vậy, nhiều giai thoại về lời ca của bản nhạc vẫn còn truyền tụng. Cha Mohr qua đời trong cảnh nghèo khó vào năm 1848 trước khi được công nhận là tác giả bài thơ được phổ nhạc.
Vào cuối thập niên 1890, bản Silent night được phiên dịch ra hơn 20 ngôn ngữ khác nhau và là bản nhạc không thể thiếu trong các lễ hội Giáng sinh trên khắp thế giới. Sang thế kỷ 20, bản nhạc này đã đi ra khỏi các giáo đường, hội nhập với những tập tục Giáng sinh khác. Năm 1905, bản nhạc Silent night được thu âm lần đầu tiên do ban nhạc Haydn Quartet. Đó mới chỉ là khởi đầu, sau đó bản nhạc đã được thu âm cả ngàn lần do các ban nhạc khác nhau trên khắp thế giới hát. Tới năm 1960, Silent night đuợc công nhận là bản nhạc được ghi âm nhiều nhất trong lịch sử âm nhạc. Trong tâm trí nhiều người, bản Silent night được viết ra lúc khởi đầu chỉ là một bản nhạc giản dị, một khúc ngợi ca, được sáng tác để làm nghi thức mừng lễ Giáng sinh có ý nghĩa hơn, bản nhạc xưa cũ này vẫn còn mạnh mẽ và tươi mát như lần đầu tiên được hát lên trong ngôi thánh đường nhỏ bé nơi nước Áo xa xôi. Gần một trăm năm sau, nhà thờ Thánh Nicolas không còn nữa: khu vực mà nó tọa lạc bị lũ lụt tàn phá, cư dân được di dời tới một nơi khác an toàn hơn và một thánh đường mới cũng được xây tại đấy. Tuy nhiên, ngay ở nơi nhà thờ cũ bị phá hủy, để ghi nhớ bản “Silent Night”, người ta đã dựng một nhà nguyện nhỏ mang tên “Nhà nguyện Tưởng nhớ Ca khúc Đêm Yên Lặng”. Cùng nhà bảo tàng kế cận, ngôi nhà thờ nhỏ này là nơi thu hút du khách thập phương, đặc biệt trong các mùa Giáng sinh.
Với sự lan truyền của bản Anh ngữ xuất hiện năm 1859, được coi là phiên bản thông dụng nhất hiện nay trên thế giới, âm hưởng của “Silent Night” ngày nay đã không thể thiếu được trong dịp Giáng sinh, dù ở bất cứ nơi đâu. Tháng 3 năm 2011, bài thánh ca “Silent Night” đã được tổ chức UNESCO công nhận là Di Sản Văn Hóa của nhân loại. Silent Night đã ra đời cách đây 200 năm, kể từ ngày được trình diễn lần đầu tiên vào đêm Giáng Sinh năm 1818.
Silent Night
Silent night, holy night, All is calm, all is bright
Round yon virgin mother and child. Holy infant so tender and mild,
Sleep in heavenly peace. Sleep in heavenly peace.
Silent night, holy night, Shepherds quake at the sight,
Glories stream from heaven afar, Heavely hosts sing alleluia;
Christ the Saviour, is born! Christ the Saviour, is born!
Silent night, holy night, Son of God, love's pure light
Radiant beams from thy holy face, With the dawn of redeeming grace,
Jesus, Lord, at thy birth. Jesus, Lord, at thy birth.
Bản nhạc này đã được nhạc sĩ Hùng Lân đặt lời Việt dưới tên Đêm thánh vô cùng từ hơn nửa thế kỷ trước và được hát trong các thánh đường cũng như trên các phương tiện truyền thông trong mùa lễ Giáng sinh.
Đêm thánh vô cùng
Đêm thánh vô cùng, giây phút tưng bừng, đất với trời xe chữ đồng.
Đêm nay Chúa Con thần thánh tôn thờ. Canh khuya Giáng sinh trong chốn hang lừa.
Ơn châu báu không bờ bến, biết tìm kiếm của chi đền.
Ôi Chúa Thiên đàng, cảm mến cơ hàn. Nhắp chén phiền, vương phong trần.
Than ôi Chúa thương người đến quên mình, bơ vơ chốn quê nhà lúc sinh thành.
Ai đang sống trong lạc thú, nhớ rằng Chúa đang đền bù.
Tinh tú trên trời, sông núi trên đời. Với Thánh thần mau kết lời
Cao sao hóa công đã khéo an bài. Sai con hiến thân để cứu nhân loại
Hang chiên máng rêu tạm trú, bốn bề tuyết sương mịt mù.
No comments:
Post a Comment